"Tôi trước tác là để phổ biến tâm thuật chứ không phải để kiếm danh lợi." THÁI DOÃN HIỂU

KHI NGƯỜI THỢ GIEO HẠT NHÂN TÌNH VÀO THƠ

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Thứ Sáu, 6 tháng 8, 2010

THÁI DOÃN HIỂU
Tài sản Điền gia còn lại là gì sau chừng ấy năm làm lụng cấy gặt vất vả gian nan? Giữa cuộc đời lận đận ba chìm bảy nổi chín lênh đênh, Điền Ngọc Phách đã trình làng bảy tập thơ mà hầu hết chỉ là những bản nháp, tập dượt để chuẩn bị cho sự ra đời của một điệu thơ riêng kết tinh trong thi tập “Giọt tâm”, đặc biệt là giai phẩm Trắng Thu”. Trên con đường gập ghềnh hành hương về thánh địa của thơ ca, Điền Ngọc Phách đến muộn. Cũng chẳng sao, nổi tiếng sớm chỉ tổ phải oằn vai gánh nặng. Năng lực có nghĩa lý gì khi thời gian chưa đủ độ chín và thời vận không bén mảng đến cùng ta? Giữa “Lãnh địa cô đơn”, Điền Ngọc Phách lảnh lót cất lên một tiếng “Chim hót cuối chiều”.  Tôi rất thích thú được biểu dương, giới thiệu với bạn đọc một nhà thơ công nhân thực thụ.

#

Điền Ngọc Phách là thợ cơ điện đạt đến hạng tận cùng bậc 7/7. Anh đem bàn tay vàng đó ra làm thơ. Với thơ, Điền Ngọc Phách cũng đã kỳ công như một thợ kim hoàn tinh xảo. Anh chỉn chu trong chữ nghĩa, suy ngẫm, cố giải phóng lời để giải thoát ý, công phu cân chỉnh phép làm thơ nên tạo ra được những món đồ nữ trang hoàn hảo, có giá.
Sở trường sở đoản của Điền Ngọc Phách là thơ tứ tuyệt. Anh biết cách làm và làm hay thể thơ cực khó này. Tứ tuyệt Điền Ngọc Phách có tứ cốt vững, da thịt ngôn ngữ chắc, chọn được khoảnh khắc để sinh thành và đẩy được tới cao trào. Tám mươi bài trong tập Trắng thu, mỗi bài một vẻ, chứa đầy tâm trạng, nỗi niềm, trải nghiệm, có giọng điệu riêng, hàm xúc lay động lòng người.
Thuyền ai rẽ trắng chiều thu lặng
Trắng rợn ghành xa nước biệt dòng
Phấn bay nhoà mãi bờ lau trắng
Sịch nửa bai chèo khoả trắng không.
(Trắng thu 1)
Đây là cảnh lữ thứ tha phương cầu thực nay cuối đời lần về cố hương:
Đưa cháu về quê nội
Trở lại, ông một mình
Thực đường, sao lẫn lối
Đất trời đều chông chênh.
(Đường về)
Anh cảm nhận cuộc đời từ cái nhìn có chiều sâu kinh nghiệm qua một ô cửa :
Vẫn là ô cửa sổ
L ồ lộ một khuôn trời
Bằng yên hay sóng gió
Đóng mở tự hồn tôi !
                             (Qua cửa sổ)
Cái nhìn mang tầm vóc thiên nhiên chứa chất ngụ ngôn thu gọn  vào thế thái nhân tình:
Dại khờ là chú ốc sên
Mòn bao nhiêu lưỡi bò trên chót cành
Dại khờ là bác cao xanh
Khóc đem vãi nắng, cười đành đổ  mưa
                                      (Dại khờ)

Những câu thơ thế sự chín và thấm:
Gớm cho men danh lợi
Nhắp vào túy lúy say
Bước ra từ bóng tối
Muốn nhai nuốt rạng ngày.
                                      (Vạ chí)

Có lúc nhà thơ lại buông thả tắm hồn trong thiên nhiên kỳ ảo:
Ô hay! Trời đất quang mưa gió
Sao giọt trăng ngần lấp lánh rơi
Gom từ sâu thẳm vầng sương khói
Vàng xuống nhân gian ngọt suối người.
                                        (Lệ trăng)
Khi nửa đời nhìn lại, anh trầm tưởng với phong thái ung dung đạo cốt "Tha hương nửa dúm chiều hoen bãi - Lửng nón vàng thu gió rụng đầy" (vàng thu). Điền Ngọc Phách bình lặng nhìn đời, phát hiện ra "Chiều buông. Ngoái lại trông chừng - Nắng vài ba sợi ngang lưng bạc rồi" (Lục bát không đề), để chiêm nghiệm "Ngỡ như mọi sự đã già - Mà không, trẻ mãi trong ta nỗi buồn"(Phía ấy). Anh chấp nhận quy luật đời biện chứng trong nuối tiếc khi tuổi tác đã xế "Mái xanh trao lại đàn con trẻ - Đầu bạc trông theo nhạn cuối trời" (Giọt). Khi suy tư về tình yêu, từ những mặt đối lập trong thống nhất, nhà thơ tạo được những ngược chiều hình thức thú vị "Trái thêm ngày - trái chín/ Tình thêm ngày - tình xanh" (Chín xanh). Khi quyết đoán hành động, Điền Ngọc Phách không ngần ngại hành xử "Ngẩn ngơ giữa ngả ba người - Dám đem thế chấp một đời mẹ ru" (Lời sám hối).
Thơ Điền buồn, nhưng lúc cần, anh cũng biết giữ cho hồn mình thanh tân lên cùng với năm tháng. Nhà thơ thật tinh nghịch, hóm:
Hỏi vay mấy giỏ hương đồng
Một hai liếp gió, dăm vòng hoa mưa
Men thơ ủ lấy ... đã thừa
Thêm đôi hớn hở cho vừa ý xuân
(Hành trang xuân)

Điền Ngọc Phách là người có pháp thuật hóa thân vào các thiếu nữ một cách duyên dáng nhuần nhuyễn y như thật từ cái ỡm ờ lấp lửng:

Ấy là cây thơ dở dang
Lắc hoài bím túc đuôi sam em cười
Biết mình đã thế thì thôi
Cũng đeo đẳng lấy thói người nhà quê
Em thương cái nỗi vụng về
Em yêu cái tội ngu ngờ thị thành

Câu thơ ngõ lội mái gianh
Cũng hoai mùi rạ, cũng tanh vị bùn
Câu thơ chập chững chân run
Cũng đau bẫy rập, cũng non cánh giàng
Giận hoài bớm tóc đuôi sam
Mười cửa thương, chín độ làm khổ nhau.


                                                    (Ấy là…)

Đến đây, bạn đọc sẽ hoài nghi, phân vân đặt câu hỏi – không biết nguyên nhân nào đã sinh hạ ra được những vần thơ lịch lãm và chín chắn từ người thợ ấy?
Tôi cho rằng có hai nguyên nhân khởi sự sau đây:
(1) Vận may không phải lúc nào cũng mỉm cười với người tử tế. Điền Ngọc Phách có một tuổi thơ thật nhọc nhằn nên sớm già trước tuổi. Vào đời, việc lớn đầu tiên là anh không có quyền lựa chọn cho mình một nghề nghiệp (!) Hoàn cảnh bó buộc bức Điền phải lãnh lấy một công việc bất đắc dĩ. Nhưng càng về sau, anh mới nghiệm ra rằng: nghề nào cũng cao quý, không có nghề hèn, chỉ có người hèn. Điền Ngọc Phách đã phải sớm lấy cơ bắp của mình làm kế sinh nhai. Trong việc này, đừng tưởng người kén nghề, nghề cũng kén người ra trò. Nghề thử thách và đào luyện ra người.  Điền sinh nghề tử nghiệp, anh không đùa với nghề. Anh chịu thương chịu khó mầy mò học hỏi nâng tay nghề lên bậc cao, "Cùng hàng chục kỹ sư hàng trăm công nhân kỹ thuật đắp da đổi thịt, lắp chân gá tay cho ngàn cỗ máy dệt sống lại gieo thoi, nhả vải" (Tự thuật). Rõ là nghề không làm danh giá người mà chính người làm danh giá cho nghề.
Nhưng khốn nỗi, với Điền cuộc đời đâu có xuôi chèo mát mái, nó như cái ao tù chật chội, sống ép hồn, chết rấp xác. Rủi ro thường tìm đến và rủ rỉ đi bộ cùng anh. Trong chuỗi ngày khốn khó đó, Điền Ngọc Phách biết từ tốn nhận phần vinh giữ lấy cái phần nhục. Điền không khinh đời, nên không lánh đời. Anh trụ vững giữa cuộc sống đầy chông chênh. Cõi tục bon chen quả là thiếu gì cách để kiếm tiền nhưng lạy chúa có rất ít cách để lương thiện! Sống, Điền đã kiên cường đương đầu với mọi nghịch cảnh. Anh luôn thầm nhắc hãy tự giữ gìn rồi trời sẽ phù trợ cho. Điền cố gồng người lên giữ thăng bằng cho mặt đất để cuộc đời anh rộng lớn hơn cả bầu trời. Không lùi bước trước những xỏ xiên, bất công, ngang trái, Điền đã không bị đè bẹp bởi các tai ương. Điền biết giới hạn, thoả mãn và phát huy các tiềm năng của mình. Hoạn nạn càng lớn cuộc sống càng xứng đáng và có ý nghĩa. Với Điền, may là rủi và rủi cũng là may. Hoạ - phúc là hai gã bạn luôn đồng hành cùng anh. Tay nghề giỏi thế mà cho đến tận nay Điền vẫn sống trong đạm bạc, nghèo túng, nhưng anh vẫn làm chủ được tâm hồn mình bằng đức khiêm cung, giản dị. Trong chịu đựng, Điền gặt hái được sự an hoà. Thường thì "Người biết giữ chí không nghĩ tới hình" (Trang Tử), nhìn thân thể tiều tuỵ, gầy yếu, râu tóc trắng cước, đôi mắt mở to sáng trong với những câu thơ khắc chạm công phu, ta đã nhìn thấu chân tướng của Điền. Giá trị đích thực của con người là ở nơi nhân cách chứ phải đâu ở nơi của cải họ có. Điền Ngọc Phách đã đem nhân cách của mình ra để giải toả mọi bất hạnh trên đời. Điền sống thanh thản bởi anh đã bảo toàn một cuộc đời trung thực trong bươn chải truân chiên. Nhiều người cùng cảnh sở dĩ rơi vào bất hạnh bởi không chịu đựng nổi được bất hạnh. Lòng quả cảm của Điền trước cuộc sống là sự biểu hiện bộc trực trọn vẹn về ý thức trách nhiệm. Điền hiểu người trí không bao giờ cố đạt tới cái không thể có. Vốn là người trải đời, sống nhiều và hợp lý, lại biết cách suy xét nên Điền đã làm phong phú cuộc đời anh lên gấp bội. Hãy yên lòng ! Xã hội chỉ thừa nhận và tôn trọng những phẩm giá được tôi luyện trong việc làm, trong hành vi, trong thành quả cống hiến của anh ta đối với mọi người.
Người nghèo không sợ, khổ không núng là kẻ khó khuất phục. Trái tim Điền Ngọc Phách trong sạch không một vết nhơ. Trái tim đó khó có ai doạ nạt nổi. Rômanh Rôlăng ví kiếp người là cái cung, dây cung là mộng ảo, biết tìm đâu cho ra một tay xạ thủ bây giờ? Điền có thể thủ vai đó được chăng? Điều dễ nhận ra ở nhà thơ này là sự thật cuộc đời của Điền Ngọc Phách cay đắng hơn nghệ thuật của anh rất nhiều. Hoạn nạn làm lớn con người, Điền trải tai ương của chính cuộc đời mình ra làm chất liệu cho thơ. Xuất phát từ trái tim mình anh đi đến với trái tim người. Thơ ấy sống và sâu bởi đằm chất tự truyện chân chính. Thơ Điền là tiếng vọng của nhân gian chứ không phải là bầu vú mọng sữa dành cho ai đó.
Aragông bảo "Hạnh phúc chẳng bao giờ huy hoàng - Le bonheur n'est jamais". Người cùng khốn thơ dễ hay. Điền không chú ý đến hiện tượng, anh chỉ quan tâm đến bản chất các sự kiện. Không tự sự rườm rà, anh phơi trần cái tâm trạng tứa máu trần trụi của mình trước hiện thực bộn bề. Nỗi đau của người thơ thường được khái quát dựng thành số phận ẩn dưới những sự cố tai quái, bất ngờ.
Ngàn xưa trút sạch... lâu rồi
Tôi làm tôi của khóc cười thực... hư...
Thật mình sao cứ hình như
Giọt tin rơi rụng, giọt ngờ loáng bay
Cái vui riêng của hôm nay
Mà sầu nhân thế tự ngày sơ sinh.
(Lượm)
Ba biến cố trọng đại của một đời người là Sinh, sống, chết. Con người cảm thấy hớn hở reo vui khi được sinh ra, quên lãng để sống và rên xiết khi giã từ dương thế. Làm thơ là lúc người thơ được sống lại thời quá vãng êm đềm nhằm nuốt trôi mọi mùi vị chua chát của thế tục trong hiện tại, rồi với trực giác siêu tưởng hướng tới tương lai bằng những mơ tưởng ảo huyền. Người ta nói nhà thơ là thầy của hy vọng, cũng phải.
Người đời thường chuộng danh hơn trọng đức. Trong thời buổi trên giành danh, dưới tranh lợi đang diễn ra thảm khốc, Điền Ngọc Phách ung dung tự tại sống co vào nội tâm. Niềm vui sướng khởi từ thế giới nội tâm là niềm vui sướng đích thực. Đó là cách tốt nhất để anh được ngụp lặn giữa yêu thương. Lòng thương đời yêu người là phẩm tiết được thu lượm từ những chiến thắng tinh thần, gặt hái được qua khốn khó. Trong văn chương, nghệ thuật không thể tiến xa được nếu không bắt nguồn từ một tình yêu cao cả đối với con người.

0 nhận xét

Đăng nhận xét

CHÂM NGÔN SỐNG VÀ VIẾT

Tôi viết phê bình là để làm sáng giá và sang giá tác giả, tác phẩm văn học.

HOÀNG NGỌC HIẾN

Mỗi ngày gặp một người, họ là mảnh của thiên tài nhân loại. Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang.

CHẾ LAN VIÊN

Sở dĩ tôi nhìn được xa trông được rộng là bởi tôi đứng trên vai những người khổng lồ.

NIU TƠN