"Tôi trước tác là để phổ biến tâm thuật chứ không phải để kiếm danh lợi." THÁI DOÃN HIỂU

CHÙM THƠ THÁI DOÃN HIỂU (I)

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Chủ Nhật, 6 tháng 3, 2011




Thái Doãn Hiểu, 1993

Một lần vào năm 1993 tôi đến báo Văn Nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đặt in cái bìa sách Tuyển tập thơ tình bốn phương. Nhà thơ Huỳnh Văn Dung khích tôi “Ông Thái Doãn Hiểu chỉ viết phê bình giỏi khen chê thơ người khác, còn mình thì đếch làm được câu thơ nào”. Tức khí, tôi về nhà rút ngăn kéo ra đưa Dung ba bài Trăng , Có một vì sao, Pháp trường trắng. Dung ném nó vào cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ lúc đó đang rất thanh thế rầm rộ. Bốn ngày sau chùm thơ được in một trang riêng trên báo Văn Nghệ Tp HCM, lọt vào vòng chung khảo. Nhà thơ Hoài Anh gật gù “Không thể tưởng tượng nổi là Thái Doãn Hiểu lại làm thơ trẻ trung đến thế”. À, thì ra, mình cũng là thằng giỏi trong số những người làm thơ nghiệp dư tồi. Từ đó, tại tòa soạn báo xuất hiện cụm từ “thơ ngăn kéo”.

Thơ - đối với tôi là một nghề thật cao sang, cực khó và nghiệt ngã. Suốt hơn 40 năm qua, ngoài việc viết những bộ sách biên khảo và phê bình văn học trường thiên, tôi vẫn âm thần cần mẫn chế thơ cho riêng mình để chơi, ít khi đem đăng báo. Toàn là thơ tự đến, tôi không hề cầu mong. Con số trong anbum thơ đã lên được vài trăm bài. Xin trích một số  trong tâp TÂM CẢM để bạn đọc giải trí cho vui (THÁI DOÃN HIỂU)








CÓ MỘT VÌ SAO

1.

Mắt em ai để
một vì sao xa
Chao, trong sáng thế
Em ơi, phải là…

Ngày kia sẽ rụng
xuống ai - cuối cùng ?
bùng lên vầng sáng
đêm nồng cảm rung.

Rồi đời anh mất
Nhưng tim không tắt
ấp ủ em vào
như sao trong mắt.


2.

Mặt trời cháy nắng
ở trong mắt em
dịu dàng vầng trăng
đậu trên trán em

Ngày mai
Em hỡi
Trăng sẽ trong mắt
Mặt trời sẽ trong tim (1)

                          Nghi lộc, 1967
                          Giảng đường Đại học Sư phạm Vinh
                                              1967-1972


---------------------
·        Bài đăng báo Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh số 109-1993
·        (1) Trùng một ý thơ của thi hào Đức Hainơ. Khi làm bài thơ này, tôi chưa đọc Hainơ.



CẦU VỒNG

Đông - Đoài hai đứa hai nơi
Màn mưa giăng sáng một trời chờ mong
Sau mưa chợt hiện cầu vồng
Bắc bên đoài tới bên đông, lạ kỳ ! (*)

                                  Trường Sơn Đông, 7-1967

----------------------
(*) Bài viết khi cả hai chúng tôi đang tham gia chiến tranh
trong binh chủng Thanh niên xung phong
Bài công bố lần đầu




TRĂNG

                                                          Em trốn vào trăng
                                                          Mở trăng ta tìm
                                                          Gửi HL yêu dấu



Trăng ơi trăng
giữa lòng ta em chiếu
Hai mươi sáu năm rồi anh mới thấy mặt em !

(Hai mươi sáu năm tim ta cháy bỏng
không đêm nào không khát một vầng trăng
Thuở nước cắt chia trăng cùng chung cảnh ngộ
Anh lén hôn thầm em sau cửa khoá cuộc đời)
Trăng đi rồi
anh nhìn theo xa xôi…

Nỗi nhớ nghiêng đêm sâu hút bốn bề
Lòng  rộng mở lắng  nhịp đời trăn trở
Hạnh phúc loài thai đêm vàng chớn chở
Rộn hồi âm sự sống bộn bề.

Anh thấy mùa màng thịnh vương bởi phù sa
Năm tháng chín dần trong đôi  mắt thiết tha
Son sẻ quá mùa xuân cười lên tiếng hát
Như kẻ khát vục lòng trong suối mát
Đất cựa mình hạt giống xôn xao.

Đêm nay như những đêm nao
Lòng anh như thể ngày  nào gặp em
Đêm nay
đêm thần thoại
còi báo yên vừa dứt
Trăng trầm tư cùng trời với đất
Gợi trong ta một ảnh hình xa khuất
Cứ bồn chồn như một nỗi chờ trông
Đêm rất tĩnh bởi có ngày rất động
Trăng dịu dàng thơ thẩn tìm ai
Em mặc áo trăng đi cùng anh
dưới hàng dương xanh lộng gió lành
Anh nắm tay em im lặng
bồi hồi nghe tình ta lên hương !

Em đến với anh như ngọn đèn thắp lên mỗi tối
Em đi bên anh như ngôi sao không lạc lối
Như lương tâm luôn đi bên phải cuộc đời
Rộn rịp lòng anh ngày cưới
Tình yêu ta đốt lửa tâm hồn.

Đêm thẳm sâu lắng dòng đời náo nức
Một tiếng bom gầm vỡ nát không gian
Nhưng chẳng làm cau gương mặt em bình thản
Trong êm ả tột cùng của bát ngát cao xanh.(*)

                                                        Đồi Triều Dương, Mỹ Sơn,
                                                         Đô Lương đêm 28-4-1969
                                                         Đà Lạt mờ sương, 10-3-1978

Cái thuở ban đầu..., 1970


-------------------------
(*)  Sau khi một tiểu đội anh hùng TNXP hy sinh ở cửa tử Truông Bồn, Đại đội 325 của tôi được điều về thay thế. Một buổi chiều toàn đại đội tập trung san lấp một hố bom lớn ngay trước cửa Truông xong, vừa rời khỏi hiện trường 9 phút thì ngay chổ đó một quả bom tấn phát nổ, cả trăm mạng người suýt bị xóa sổ, trong đó có tôi. Đêm ấy, tôi độc hành trèo lên đồi Triều Dương, dưới ánh trăng sáng vằng vặc, ngồi một mình giữa trời khuya, pháo sáng đốt lựng trời, tiếng bom chốc chốc gầm lên làm vỡ nát cả không gian. Lòng tôi đầy ưu tư, rất nhớ người yêu cách 4 km ở một đơn vị TNXP khác, nên viết bài thơ này để vơi nỗi nhớ. Sáng hôm sau, tôi nhờ cô y tá Mai chuyển cho Hoàng Liên khi lên công tác ở ban chỉ huy Đội. Tối hôm đó, nàng lò dò cuốc bộ đến Truông Bồn thăm tôi với một câu thương cảm “Đọc bài thơ thương anh quá”.
Bài in lần đầu trên báo Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh số 109 năm 1993.
Sau đó, Tuyển tập thơ tình bốn phương, nxb Trẻ 1994



NỤ  CƯỜI

Mùa xuân rền bom đạn
Sinh con giữa chiến trường
Con là mầm là nụ
Trong lòng cha rưng rưng

Con vừa mới nửa tuổi
Tóc cha đã điểm sương
Trường Sơn mẹ nằm  lại
Bốn mùa sương trắng vương

Để ngăn cha khỏi khóc
Con nở một nụ cười !

                               Đồng Thành, 1972




TÂM SỰ NGUYỄN DU            


Nguyễn Du viết Truyện Kiều
Là để trút cả bầu tâm sự :
"Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ" (1)
(Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai).

     Thúy Kiều hai lần mặc áo xanh con ở
     Hai lần làm kỹ nữ chốn yên hoa
Liệt nữ không thờ hai chồng
Bắt phong trần phải phong trần
Đoạn trường thế ấy còn vần chưa tha.

Cậu ấm Nguyễn sớm bị rứt ra khỏi màn loan trướng huệ
Ném vào cát bụi phong ba.
Tôi trung không thờ hai chúa
Vị cựu thần nhà Lê
Lại áo mão rềnh rang giữa vương triều Nguyễn
Tránh sao tiếng lao xao đàm tiếu của người đời ?

Hai cảnh ngộ một tâm tình chìm nổi
Kiều là Nguyễn Du, Nguyễn cũng là Kiều
Mượn số kiếp nàng Kiều mà cảm thương thân thế
Nguyễn khóc Kiều là khóc chính cho ông
Nguyễn chiêu tuyết Kiều là chiêu tuyết cho ông.

Khoanh tay trông trời
Rủ áo nhìn đất
Nguyễn chỉ lặng im "Vâng ! Dạ !"(2) 
Nguyễn vật lộn gian nan cùng chữ "tiết"
Giữ vẹn tấm cô trung hay làm một kẻ sĩ thức thời !?

"Ta có một tấc lòng không biết ngỏ cùng ai "?
Tôi chợt hiểu ra mới ngoài ba mươi tuổi
Mái đầu Người đã trắng xóa như mơ ! (3)


Tiên Điền, 8-10-1999
Bên bờ sông Tiền Đường, 15-7-2005 
Tuyn tập 700 năm thơ Huế, H. Thuận Hóa 2007   -http://www.khoinguon.org/


--------------------

(1)               Thơ chữ Hán của Nguyễn Du
(2)               Có lần, Nguyễn Du bị vua Minh Mạng quở :"Nhà nước dùng người cốt chọn người tài giỏi. Ngươi cùng Ngô Vỵ đã được cân nhắc lên hàng á khanh, biết thì thưa thốt, sao  lại khoanh tay chỉ biết dạ dạ vâng vâng". Niềm u uất này kéo dài cho đến tận chết. Trước khi qua đời, vì bị nhiễm bệnh dịch tả từ Xiêm (Thái Lan) truyền sang, Nguyễn Du sai người nhà sờ lên người ông. Người nhà thưa : "Đã lạnh đến đầu gối". Ông bảo "Được, được" rồi tắt thở, không trối lại điều gì. Ông chết  trong cô đơn không ai vấn tang, đưa tang, lấy cớ sợ bệnh truyền nhiễm. Vua Minh Mệnh chỉ đưa đồ phúng, không viếng. Mạn tang, Nguyễn Ngữ - người con trai thứ 4 đưa hài cốt cha về táng dưới chân núi Hồng.
(3)               Chi tiết này có chép trong Gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền

Xin xem thêm lời bình :
Tâm sự Nguyễn Du




NGƯỜI THẦY ĐẦU TIÊN

                                          Tưởng nhớ Mẹ

Mẹ hiền nuôi tằm dệt lụa
dạy ta bài học làm văn
Con tằm ăn dâu suốt tháng
nhả tơ vàng óng một giờ.

                                    Sài Gòn, 6-1993





PHÁP TRƯỜNG TRẮNG

Nỗi dày vò đau đớn của tôi
là mỗi tối
khi ngồi vào bàn viết
tim tôi liền bị đưa ra pháp trường :
Thật cưới Giả
Chánh ở lẫn
Đen hóa Trắng
Ông biến thành Thằng
Thiện ăn nằm cùng Ác
Chân lý phiêu linh trong đêm
Chập chờn máu khóc đầu bút
(Nỗi đau này chẳng phải của riêng tôi)

Nỗi đau này dồn xuống một mình tôi
Chỉ có một người
một người thôi
biết băng bó
và làm vết thương tôi thôi chảy máu
Nhưng biết tìm đâu
tìm đâu
Cho ra người ấy… ơi người (*)


-------------------
(*) Cảm hứng khi viết Âm vang của tiềm thức. Đây là lời ĐỀ TỪ của thiên tự truyện này. Lần đầu tiên in trên báo Văn Nghệ Tp Hồ Chí Minh số 109-1993.



KIẾM TÌM


Người người đổ xô tìm vàng
Giành nhau lừa nhau giết nhau
Những kẻ giàu, no -  hợm
mắt tối sầm
Những người đói, rách, câm
vàng sáng - hận

Luân lạc giữa cuộc người
tôi đi tìm… tôi
dưới từng trang viết
dày lên theo tháng năm


Cuộc kiếm tìm sẽ khó mà kết thúc
Khi qua tôi chưa ai nhận ra mình (*)


--------------
(*) ĐỀ TỪ tác phẩm GIAI THOẠI KẺ SĨ VIỆT NAM, Nxb Văn Hóa Dân tộc, Hà Nội 1997.



HOA MÔI EM


Em lặng lẽ ra đi
để lại nơi ngôi nhà của hồn anh
hóa đá một nụ cười bí hiểm
hồn nhiên
trinh trắng

Từ đó
hoa môi em
cứ nở hoài
trong tĩnh lặng

*

Vẫn đôi mắt nặng nắng màu nhiệt đới
Trong bóng râm hàng mi rợp mát tươi cười
Anh nhìn thấy cả đất trời
Và hy vọng chói ngời lên trong đó
Ôi những ngày lòng ta mưa gió
Đã qua rồi. Nay đến tiết thanh minh.

                                            Đô Lương, 7-1969
                                            Quỳnh Lưu, 1970





ÂU YẾM

                         Tặng Hoàng Liên

Em là cái dằm
xuyên giữa ngực anh
nhức nhối

Em là họa mi
trong hồn đêm
thánh thót

Em là Quán Thế Âm Bồ Tát
trong ngôi chùa anh
tĩnh lự thiền

Em là cánh chim tìm về tổ ấm
côi cút hoàng hôn
bơ vơ ký ức buồn

Em: Tử Kỳ - anh: Bá Nha
suốt đêm thâu
rì rầm to nhỏ chuyện xưa sau

Em bao la lòng mẹ
giang cánh đại bàng
chở che khi anh lâm nạn.

Chính Em - bông sen vàng
nở trong tâm thức anh
thơm ngát

Em là giáo đường
chuông chiều thỉnh
ngân nga

Em là …

Sáng, Em mở mắt ra – mặt trời ló rạng:
                       một ngày mới của anh bắt đầu
Đêm, Em khép làn mi cho nửa vầng trăng anh thức
Trái đất mênh mông không chứa nổi em
Thế mà anh lại nhốt được em trong tim này bé xíu.

                                                                           Xuân, 1999


Đêm, Em khép làn mi cho nửa
vầng trăng anh thức, 2000




CỐ HƯƠNG

                                                   Tạo hóa dường như buộc chân chúng ta
                                               vào quê hương bằng những sợi dây vô hình
                                                                                          SATÔBRIĂNG


Cha mẹ mất anh em tứ tan
Ngàn dặm con về đưa Mẹ lên đồi cao
Gió lộng trời xanh cây biếc
Mặt hồ ôm núi ngủ mơ
Cha Mẹ bình yên nghỉ trong lòng đất
Sau một đời sống nhân nghĩa cần lao
Hài cốt của Người làm nên Tổ quốc !

Tôi lục tìm từng cọng sim búi cỏ
Tuổi thơ mình vướng víu đâu đây ?
Dẫu đã đi qua nghìn sông núi
Mảnh đất nhỏ xíu này không dứt khỏi đời tôi.

Đêm, ngủ lại ngôi nhà xưa
Êm ấm một thời…
Này cha, này mẹ, này chị này anh
Đi về rày những lối này (1)… chiêm bao
Giờ cổng nghẹn rào gai lấp
Cỏ dại chen chúc lấn sân, ngợp cả hồn
Mùi ẩm mốc ấu thơ quyện tiếng trùng rỉ rả.

Se sẽ đặt bàn tay lên vai cháu nhỏ :
- Bánh xe đời lăn theo đường của nó
Hoang phế chỗ  này, thịnh vượng nơi kia
Hoài cảm mà làm chi ? (*)

                                                          Làng Yên Thế, Thịnh Sơn, Đô Lương
                                                                                     Nghệ An, 16-8-1995

--------------------------------
(1)   Nhại Kiều
(*) Bài đã đăng báo Văn Nghệ Hội Nhà văn Việt Nam số …1998



TẠ LỖI CỐ NHÂN

                         Ai cũng có một thời để yêu để nhớ
                         Ai cũng có những phút giây ngoài vợ ngoài chồng
                                                                      THUẬN HỮU


 Thời trẻ
Anh rất sợ các nàng làm hỏng mất sự nghiệp của mình
Nên trước cái ào ạt đắm say của sóng nghiền bờ đá
Anh đã phải vọt lên để khỏi chết chìm trong lòng biển thẳm của em

Từ đó, ta lạc mất nhau
Em đi lấy chồng cho xong thân thế
Anh độc hành kiếm cái… hư vô !

Ba mươi năm sau
Khi trên giấy anh đã xây được đền đài văn hóa
Ngoảnh lại thì em đã cách xa
Thương lắm lạc loài cánh hoa
Lênh đênh trôi dạt bến nào
Ơi nàng tiên nhỏ
Phía hoàng hôn cứ rực lên.

Đến cố đô tìm lại cố nhân
Vượt qua Đập Đá anh tìm
Vỹ Dạ xanh xanh tre trúc
Mơ màng thấp thoáng mặt ai

Mối yêu đến giờ đã cạn
Lửa tình nồng đượm đêm sâu
Bao năm sống bằng tâm tưởng
Gặp rồi thật sự mất nhau !

Em chính là một thiên thạch
Xẹt qua bầu trời đời anh
Gửi lại hằng hà mảnh vỡ
Lả tả rơi hoài rỗ mặt thời gian.

                                           Huế, 13-8-1995
                             (Nguồn : Tuyển tập 700 năm thơ Huế,
                                          H.Thuận Hóa 2007)

Xin xem thêm lời bình :
Tạ lỗi cố nhân




ĐÙA CÙNG VỢ


(1)

Em ơi, ngày xưa khi tình ta thành keo sơn
Với anh – em là một nhà thi sĩ lớn !

Rồi con chúng mình lần lượt ra đời
Em nghiễm nhiên thành một nhà số học xịn !

Và bây giờ bóng xế ta nên ông nên bà
Em bỗng đại ngôn như một nhà văn xuôi chính luận !

                                                      Biên Hoà – Sài Gòn, 1986

(2)

Khi em vắng nhà
Công việc ba tháng anh làm xong một tuần !
Khi em ở nhà
Công việc một tuần anh làm trong ba tháng !
                                                                 
                                                               Hương Viên Các,1993

(3)

Nhà ngục của tôi ơi
Em – tên cai tù
cả tín

                                                 Sài Gòn, 4-1995



TẦM  NHÌN

Khi Anhxtanh với “Thuyết tương đối” xuất hiện
Lắm kẻ ngoác mồm ném chữ chửi “thằng điên”
Thế tục này chẳng thiếu lũ khùng
Thường kết án những gì vượt quá tầm của chúng.


THẺ

Nguyễn Du đâu có thẻ hội
Mà sao Nguyễn viết hay ghê
Nay có khối người mang thẻ
chỉ bôi bẩn giấy mà thôi !


CON ĐƯỜNG PHÍA TRƯỚC

Chó cứ sủa, người  thung dung tiến bước
Kẻ sĩ hướng tới ngàn năm sau lo việc
Thỉnh thoảng dừng chân để nghe tiếng rú
Thì làm sao ta đi hết đường dài ?


CHUYỆN CÂY BẠCH ĐÀN
                     VỚI CHIẾC RÌU

Lòng độ lượng của Con Người
giống như cây gỗ bạch đàn Ấn Độ
ướp thơm lưỡi rìu
từng chém phập vào thân thể nó ! (*)

                                                 Sài Gòn, 10-2-1998

BÁN – MUA

Ai bán - tôi mua
Ai mua - tôi bán

Ở giữa chợ đời
chỉ có hai loại người
có bán và không.

                         Chợ Lớn, 14-9-1993


TRÔNG

Nửa đêm bừng tỉnh dậy
mới hay mình ngủ chay !
Hương Viên sương xuống ướt
Anh dưới mảnh trăng gầy.

                    Viết trên Hương Viên Các
                           2h sáng ngày  .  2004.

Đám cưới bạc
Sau 30 năm chung sống, 2000


……………….
Lần ấy nhà tôi ra Bắc thăm viếng bà con nội ngoại, tôi ở một mình ở nhà viết Hương Viên Các (Gò Vấp). Suốt tháng ngồi viết sách và nhá toàn bánh mì với đồ hộp.
Thiếu các bà thì gay quá. Có một đêm sực tỉnh dậy khi 2 giờ sáng, không tài nào ngủ lại được, tôi lên Vườn Thơm tr ên sân th ượng ngồi trầm tư, tiện bút đề vào tháp nước mấy câu. Qua điện thoại, tôi đem tâm sự này kể với bạn Lữ ở Hà Nội.và không quên đọc mấy câu thơ thẩn ấy. Lữ cho hay Hoàng Liên đang vui thú với bạn bè ở Tam Đảo.Ba ngày sau, tôi thấy n àng bay vào, lù lù xuất hiện tại nhà với một câu mắng yêu “ Làm hỏng cả cuộc chơi của người ta”. Ôi ! Văn chương qủa cũng có ma lựcđấy chứ !?.



SỰ THẬT

Bài nói dứt trên diễn đàn
Hội trường vỗ tay như sấm
Trong rền vang tiếng hoan hô
Có những cú thoi quả đấm



TỰ THÚ

Xưa,
Trái tim tôi to mà đầu thì bé
Nay,
Trái tim tôi bé, cái đầu lại to.



THUỐC

Ngang trái sự đời lận đận
Tôi lên Nghĩa trang Trường Sơn
Gặp mặt đủ đồng đội cũ
Sóng  lòng bỗng tự dẹp yên

                          Nghĩa trang Trường Sơn, 1999



NHÂN LUÂN

                       Kẻ chết sẽ đứng dậy
                       Sự sống sẽ trở về
                               Kinh  AVEĐA



Thư vô mẹ đến
Mẹ tạo ra con
Mẹ đẻ ra Đời

Chớp mắt
hóa thân trong đất
Mẹ lại về với cõi hư vô !

                         Ngày mẹ từ trần, 1991





CON MỒI

Nụ cười là cái bẫy
Giăng giữa chiều hoang sơ
Dại khờ anh qua đấy
A ! Tóm được gã làm thơ. (*)

---------------------------
(*) Bài đã đăng tạp chí Tài hoa Trẻ, 1998, báo Giác Ngộ số … 2001.


0 nhận xét

Đăng nhận xét

CHÂM NGÔN SỐNG VÀ VIẾT

Tôi viết phê bình là để làm sáng giá và sang giá tác giả, tác phẩm văn học.

HOÀNG NGỌC HIẾN

Mỗi ngày gặp một người, họ là mảnh của thiên tài nhân loại. Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang.

CHẾ LAN VIÊN

Sở dĩ tôi nhìn được xa trông được rộng là bởi tôi đứng trên vai những người khổng lồ.

NIU TƠN