"Tôi trước tác là để phổ biến tâm thuật chứ không phải để kiếm danh lợi." THÁI DOÃN HIỂU
Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Thứ Năm, 23 tháng 9, 2010 0 nhận xét

THƯ MỤC HOÀI THANH

Hoài Thanh được giới nghiên cứu và phê bình đánh giá là Nhà phê bình văn học thiên tài và Thi nhân Việt Nam của người được xem là một kiệt tác.
Thái mỗ tôi đã làm xong công việc đội đá vá trời là viết Thi nhân Việt Nam hiện đại nối điêu vào tác phẩm của người.

Hoài Thanh đối với tôi luôn luôn là biểu tượng của trí tuệ soi sáng. Thư mục này được lập ra dành cho tôi nhằm tham chiếu vào công việc thường nhật mà tôi đeo đuổi,  đồng thời bạn đọc cũng có thể dùng nó để kiểm soát hộ tôi chất lượng của công trình.
Lấy hồn tôi hiểu hồn người
Câu văn tri kỷ một thời thơ ca.
Cũng người một hội đâu xa
Nỗi đau nhân thế cũng là niềm chung.
Trăm năm một hội tao phùng
Rằng thi thoại ấy bạn cùng thi nhân!

(NHỚ HOÀI THANH – Thơ Huy Cận)
Thái Doãn Hiểu cẩn đề.


   

HOÀI THANH - NHÀ NGHIÊN CỨU & PHÊ BÌNH VĂN HỌC TK.20

 

@ Tác giả     :
*Tên thật Nguyễn Đức Nguyên
       
(Bút danh khác như Văn Thiên, Le Nhà Quê)
       
*Sinh ngày 15 tháng 7 năm 1909 trong gia đình nhà nho nghèo

*. Quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
*. Trước 1945, ông dạy học ,viết văn, làm báo, phê bình văn học,         
theo xu hướng Nghệ thuật vị nghệ thuật.
   
*Năm 1927, Ông gia nhập Tân Việt Cách mạng Đảng.
  
* Năm 1930 bị bắt, bị kết án treo, bị trục xuất khỏi Bắc Kỳ
         
*Năm 1931 vào Huế, dạy học, viết văn, viết báo.
 
* Sau 1945, ông giữ các chức vụ :

+ Chủ tịch Hội văn hóa cứu quốc,Huế
       
+ Cán bộ giảng dạy tại Đại học Hà Nội (1945 -1946);
    
+ Phát t
hanh viên Đài Tiếng nói Việt Nam (từ 1947 đến 1948);
+ Ủy viên Ban thường vụ Hội Văn nghệ Việt Nam(1950);
           
+Trưởng tiểu ban Tuyên huấn Trung ương (1950-1956);
           
+Vụ trưởng Vụ nghệ thuật và giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Tổng hợp Hà Nội
        (1958).
+1958-1968 ông trở thành đại biểu Quốc hội khóa 2,
     
+Tổng Thư ký Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật VN

+ Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam khóa 1 và 2
      .
+ Phó viện trưởng Viện Văn học Việt Nam (1959-1969)

.
+ Chủ nhiệm tuần báo Văn nghệ.(1969-1975)
*  Ông mất ngày 14 tháng 3 năm 1982 tại Hà Nội.

@ Tác phẩm           
Văn chương và hành động (1936) 
Thi nhân Việt Nam 1932-1941 (1941,( với Hoài Chân)  
Có một nền văn hóa Việt Nam (1946)       
Quyền sống con người trong Truyện Kiều của Nguyễn Du (1949)         
Nhân văn Việt Nam (1949) 
Xây dựng văn hóa nhân dân (1950)          
Nói chuyện thơ kháng chiến (1951)           
Nam Bộ mến yêu (1955)     
Quê hương và thời niên thiếu của Bác (với Thanh Tịnh 1960)   
Phê bình và tiểu luận tập 1 (1960), tập 2 (1965), tập 3 (1971)    Phan Bội Châu          (1978)
Chuyện thơ (1978)
   
Tuyển tập Hoài Thanh (2 tập, 1982-1983)
Di bút và di cảo (1993)        
Hoài Thanh toàn tập (4 tập, 1998)

@ Thư mục nghiên cứu về Hoài Thanh :
(1)  Hoài Thanh – Hoài Chân, cuộc đời và sự nghiệp         http://phongdiep.net/default.asp?action=article&ID=7810

(2) Hoài Thanh  - Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
http://www.ngheanonline.vn/forum/showthread.php?t=1113&page=1

(3) Hoài Thanh - nghệ sĩ phê bình của Nguyễn Trường Lịch

(4) Hoài Thanh một sự nghiệp … của Hữu Thỉnh

(5) Hoài Thanh với Văn chương và hành động của Thành Duy

(7) Về một cuốn sách bảy nổi ba chìm với nước non của Từ Sơn
http://thvl.vn/?p=12252

(8) Phê bình văn học của Hoài Thanh và phê bình văn học hiện đại của Hoàng Ngọc Hiến

(9) 10 câu hỏi về Hoài Thanh của Phan Hồng Giang

(10) Có một nhà báo Hoài Thanh của Nguyễn Khắc Phê.

(11) Hoài Thanh – tri âm của thi nhân

(12) Xuân Thủy viếng Hoài Thanh của Nguyễn Khôi
http://newvietart.com/index4.413.html

(13) Hoài Thanh – văn nô hay phê bình gia chân chính của Nguyễn Mạnh Trinh

(14) Tôi đã mắc sai lầm như thế nào trong việc phê phán bài thơ Nhất định thắng của Trần Dần

(15) Hoài Thanh và phương pháp phê bình ấn tượng của Đỗ Lai Thúy

(16) Trăm năm nhìn lại Hoài Thanh giải nỗi oan và ức của Nguyễn Xuân Nguyên

(17) Chân dung Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam của Ngô Văn Phú

(18) Hoài Thanh với sự nghiệp rộng lớn và sâu sắc

(19) Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân

(20) Bài học nghề nghiệp từ Hoài Thanh của Phạm Quang Trung

(21) Hơn cả một nhà thơ của Nguyen Dinh Nguyen

(22) Chân dung Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam

(23) Nhà văn và cá tính sáng tạo trong quan niệm của Hoài Thanh của Trần Thị Ngọc Anh
http://ficland.info/tin-trong-nuoc/927-nha-van-va-ca-tinh-sang-tao-trong-quan-niem-cua-hoai-thanh.html

(24) Hoài Thanh – sách tra cứu dữ liệu – thư viện

(25) Nhà văn Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam

(26) Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam của Phong Lê

(27) Hoài Thanh cũng “đạo văn” hay ông Lại Nguyên Ân trông gà hóa quốc củaTrần Mạnh H ảo

(28) Kỷ niện 100 năm sinh Hoài Thanh

(29) Phong cách phê bình văn học của Hoài Thanh của Đoàn Đức Phương

(30) Hoài Thanh và tâm hồn dân tộc qua thơ ca của Nguyễn Thị Thanh Xuân

(31) Nhà phê bình văn học Hoài Thanh : nỗi oan không khó gỡ của Trần Thị Thu Hương

(32) Hoài Thanh viết thư tình khô như ngói của

(33) Vài hồi ức về Hoài Thanh của Mai Quốc Liên

(34) Bước khởi nghiệp của nhà văn Hoài Thanh của Từ Sơn

(35) Hoài Thanh và thời gian của Vũ Tú Nam

(36) Thi nhân Việt Nam : Hoài Thanh – Hoài Chân của ChiemPhong

(37) Nhà phê bình văn học tài năng, cây bút chính luận trung thực – Mai Quốc Liên

(38) Những bài viết của Hoài Thanh ngày ấy của Lại Nguyên Ân

(39) Phỏng vấn nhà văn Từ Sơn : Cha tôi đã sống và viết hoàn toàn trung thực

(40) Hoài Thanh một chân dung đa chiều của Nguyễn khắc Phê


HOÀNG VŨ THUẬT VỚI NHỮNG CÂU THƠ ĐẸP NHƯ NỖI BUỒN

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Thứ Hai, 20 tháng 9, 2010 0 nhận xét

  HOÀNG VŨ THUẬT VỚI NHỮNG 
   CÂU THƠ ĐẸP NHƯ NỖI BUỒN
           
                                                                                                            THÁI DOÃN HIỂU


Thoạt nhìn, thơ Hoàng Vũ Thuật ngỡ như chẳng có gì đặc sắc. Nó bình lặng, hiền hoà như dòng sông trắng(1) Nhật Lệ quê anh. Đó là thứ thơ có duyên ngầm – duyên lặn vào trong. Thơ Hoàng Vũ Thuật là những bức tâm cảnh gợi cảm rung lên nhè nhẹ khi sóng lòng xô dạt đến.
Chất thơ Hoàng Vũ Thuật lãng đãng như đi trong chiêm bao, giống như “Cái bóng mình đưa đẩy mình đi”. Anh đi tìm cái thực, cái đẹp. Nó thực đấy nhưng chỉ là một chân như ảo ảnh. Với một giọng điệu riêng, thanh khiết và lặng lẽ, nhà thơ hé mở những vẻ đẹp sâu kín trong hồn người, rồi bỏ trống đó cho người đọc tự giải mã lấy. Thơ Hoàng Vũ Thuật lưng lửng những câu hỏi vừa gợi mở vừa bí ẩn đặt ra ngoài câu chữ “Cái dấu chấm cuối cùng ai biết được - Rơi vào đâu trong số phận mọi người...”. Có cả những chi tiết tưởng như vớ vn nhưng thực ra chẳng vớ vn chút nào. Ta bắt gặp nhà thơ có lần ngồi lặng thinh trước những vỏ bao thuốc lá, loay hoay muốn sắp xếp lại ý nghĩ của mình. “Trong đêm trắng vắt ngang sợi tóc xanh”. Khi “Chạm tới cái âm thầm” chợt thấy “tháng ngày thả lửng nhạt thênh”, nhận ra cái không hoàn hảo của đời người, anh đã “muốn vò nát ném đi thật xa” dũng cảm phủ nhận cả chính mình! Ta bắt gặp trước ngàn lau trắng, nhà thơ đứng trầm ngâm cảm hoài “Người đi đi mãi chưa về”. Có lúc nhà thơ lại hoài niệm về những quả dâu da chín l thì trong ấn tượng để tiếc thương cho tình yêu một đi không trở lại. Có lúc nhà thơ còn để mắt đến ch gió thông thống thổi dưới chân cầu thang nơi giáp ranh với cái chết. Có lúc ta lại thấy nhà thơ phải co ro tù túng trong chật hẹp “Anh ngồi như nhốt trong lòng nước”, để rồi “Tôi bối rối khi lòng mình bị trói”, đầu óc cứ đinh ninh “Người này chỉ cái bóng này thôi”! mà tâm can dào lên thắc mắc “Sao con người không vốn dĩ là hoa?”. Có lúc ta lại nhà thơ thật cô đơn “Chỉ còn ta như cây thông bạc thếch - Chơ vơ trong vắng lặng chiều nghiêng”, để khuya về “Tôi thổi tắt ngọn đèn - Giấu mình trong gió bấc”. Có lúc ta lại thấy nhà thơ chếnh choáng “Cây vịn đôi bờ men ngấm say”, lúc ngơ ngẩn “Năm tháng vơi theo hàng cây rụng lá”, lúc hối hả “Nhạc ngựa thành cây dồn dập giữa thời gian”, lúc mơ màng “Sương bảng lảng và mây vàng bảng lảng” lúc thảng thốt “Đông vội vàng thả những cánh heo may”, lúc say đắm “Nắng mềm cong mái phố” lúc mê man “Ngọn gió đồng quẫy hương về các ngả”, lúc lãng tử Mặt trời đang thì mười tám – Nắng dâng những giọt men vàng – Trái đất đa tình phiêu lãng  - Quên cả thời gian, không gian”, lúc quay ngược dòng ký ức “Vòm trời lả say trên mái phố – Chú chun chuồn chấm một dấu son – Ai đính tuổi thơ ta lên đó?” để người thơ được sống lại những phút thảnh thơi trong hoài niệm “Sương khuya tóc xoã - Dài thêm sông hoài - Mà con thuyền ấy – Giờ về trong mây...”
Trong “Nỗi đau cô thành đá xám” nghiệt ngã, cái đau lặn xuống, niềm vui nổi lên. Thế là “Tóc xanh chàng đã lặng thinh cuồi chiều”, Hoàng Vũ Thuật chờ ai và ai chờ? Bạn đọc lo lắng thay cho nhà thơ đang chơi vơi giữa khoảng không vô định “Và mong đợi những điều không mong đợi...”. Trong trạng thái chống chếnh tỉnh thức đó, Hoàng Vũ Thuật đã hái được những câu thơ đẹp như nỗi buồn.
Hoàng Vũ Thuật mang mang tâm trạng buồn nhưng biết tự chủ, nhanh nhẹn quay trở về bản thể của ngọn lửa, âm thầm cháy trong mạch tư duy của mình. Tỉnh táo và sâu lắng, ý nghĩ của thi nhân thật mung lung không cùng:
Ôi ánh sáng lạnh băng
Có gì trên cao ấy?
Cái khoảng sáng vô biên
Chỉ mình tôi nhìn thấy
                             (Chỉ mình tôi)
Trong hồn nhiên ánh mắt có một nguồn sáng lạ lùng dẫn dắt Hoàng Vũ Thuật đến với thế giới bàn tay trái của riêng anh, cái thế giới mà người làm thơ ít ai đi về phía ấy. Thế giới bàn tay trái là thế giới gì vậy? Đó là sự huyễn tưởng khác thường, nơi “con sông chảy ngược, cá bơi trên bờ, chim lặn xung nước và tôi thành trẻ thơ”. Qua tâm tưởng của nhà thơ mọi cái phi lý đều trở thành cái có lý.
                 sương cài lên ngực màu thiên thanh
                    vội vã không từ biệt
                    cây cứ xanh ngoài lời
                    trinh bạch vạn năm trước
                    ngày cứ dài như cây
                                           (Lập thể)
Sẽ là một sai lầm nếu xăng xái lật tìm những tư tưởng mới lạ trong thi phẩm Hoàng Vũ Thuật. Những ý tưởng đại loại như “Bắt đầu từ ngọn lửa – Rốt cuộc là tro than – Bắt đầu từ trái tim – Sẽ bùng lên ngọn lửa” (bắt đầu) không có mấy trong thơ Hoàng Vũ Thuật. Anh không coi trọng và thực ra anh chẳng cần đúc kết các tư tưởng triết học trong thơ làm gì. Anh làm thơ là để thanh hoá tâm hồn anh. Trước cuộc đời và cuộc người, với niềm riêng bối rối, Hoàng Vũ Thuật tìm thi liệu ở ngay mình, rồi viết cho chính mình. Thơ anh chảy giữa xúc cảm bâng khuâng hồn nhiên, tươi trẻ như máu thịt sự sống.
             Hãy để bóng đi qua người thực
             Con người này chỉ có bóng này thôi

             Khi hai ta yêu nhau
             Họ chỉ còn một bóng

             Đừng giận dỗi
             Xem chừng bóng sẽ tách đôi

            Nỗi đau buồn của người này
            Là cái bóng của người kia

             Tuổi già bóng trẻ mãi
             Người chết bóng sẽ là cánh chim
                                         (Bóng)

Thơ Hoàng Vũ Thuật như thần tiên ma quái, đọc lần thứ nhất chẳng thấy gì. Đọc lại lần thứ hai, cảnh tình ửng hiện. Đọc lần thứ ba, “Bao nhiêu chữ nghĩa bay đi hết”, chỉ còn lưu lại một giải sương trắng lung linh. Kinh thi không chữ chăng? Hồn thơ Hoàng Vũ Thuật có một cái gì đó rất mơ hồ, phải lắng nghe bằng cả tâm thức mới mong lĩnh hội hết được.
Người đọc cảm nhận đưc hiện thực nơi cái lung linh mờ tỏ từ sự phát hiện sức sống chứa trong những nghịch lý “Những bông hoa trên cát” đến “Nét hoa văn mang hình ngọn lửa” trên trống đồng Ngọc Lũ biểu trưng cho sự sống bất diệt của dân tộc thời mở cõi. Từ đó, nhà thơ nghĩ xa, nghĩ gần tới “Người giữ lửa vừa đi đâu đó”, tới “Giữa mịt mùng hoang dã, chói lọi mặt trời”, tới thời hiện tại “Mẻ thép ra lò ráp thô” đến “Hoa phượng sân trường áo đỏ”. Từ sự xâu chuỗi liên tưởng thú vị đó, phương pháp đồng hiện đã tô đậm hình tượng thơ làm cho nó thành hình khối.
Có một dòng thơ chảy ngầm náo nức, say mà không đắm trong tâm tưởng nhà thơ. Hoàng Vũ Thuật không đưa đẩy, không biến hoá ch nghĩa. Anh viết thật trong sáng:
Ai mơ màng dưới tán những chiếc ô
Ai phấp phỏng dưới hiên nhà nước sũng
Ta cháy bùng trong ngọn lửa mưa
                                      (Mưa qua mặt trời)
Thương biết mấy là thương khi anh dành cho mẹ:
Gió lùa vạt áo phèn chua
Mẹ đi như  thể sợi mưa qua đồng
                             (Hương trấu)
Từ một tâm trạng bàng hoàng sống trong ảo giác giữa trần trụi đời thường:
Buổi trưa không có mặt trời
Ta cầm tù giữa vòng nhật thực
Em bé ngã mũ xin một đồng rơi
Bàn tay non xoè ngôi sao sáng rực
                                      (Trưa nhật thực)
Đến nét đẹp và thơ của một làng quê:
Con đường nhỏ lặn vào con đường lớn
Nếp nhà xưa ngơ ngác nếp nhà nay
                                      (Làng)

         Sương như thoi kén bọc mái nhà
         Ếch kêu cắt đêm ra từng chặng
         Những vì sao lảo đảo bước trong mây
         Đêm bào thai
         Kiếp ngày

         Tiếng gà vắt ngang rặng tre sớm
         Đánh thức hương vườn chim
         Trên thềm
         Lấm chấm
         Dấu chân rêu
                               (Dấu xuân)
Hay:
          Nhà loi thoi trên doi cát bạch Đằng
Nửa như ngủ, nửa vừa như thức
                             (Qua sông Bạch đằng gặp những câu thơ cũ)
Nơi thánh địa của văn chương, anh ngồi trầm tưởng:
Những lá thông reo nghìn tiếng lạ
Một thoáng như đằm trong ngẩn ngơ
                             (Trưa trong vườn Nguyễn Du)
Trong tình yêu, để mặc “Trái tim gõ  nhịp tự nhiên”, Hoàng Vũ Thuật yêu “Em chính là ngày tháng của anh” và được yêu "Em đến như là nắng đến thăm". Khi đang yêu "Em tiễn biệt mùa đông ra cửa - Mưa bên này, bên ấy nắng se”, mới thấy hết cái ngọt ngào "Một nụ hôn ẩn tích - Sững sờ hóa thạch chốn mê cung". Vòng đời luân chuyển, đã đến lúc những cặp tình nhân hốt hoảng nhận ra:
          Sẽ vô nghĩa nếu thời gian ngừng lại
          Thời yêu nhau ta phung phí quá chừng
          Những giận dỗi để nhiều đêm thức trắng
          Ta đâu biết thời gian nghiệt lắm
          Lặng lẽ trôi ngoài cửa sổ vô tư
          áo ta mang bạc trắng tự bao giờ?
                                                (Với thời gian)
          Khi chia tay "Em đi rồi trống rỗng cả câu thơ". (Em ở đây cần được hiểu là người tình, là thơ, và là ... bạn đọc!):
          Nửa nụ hôn đầy ta đã gửi
          Lên mặt hồ trong suốt đời ta
          Còn một nửa chìm trong tê tái
          Theo mùa thu thời ấy đi xa
                                                (Mùa thu trước)
Trong tình yêu, Hoàng Vũ Thuật  tìm thấy bất hạnh trong nỗi bất hạnh hơn là tìm thấy hạnh phúc trong niềm hoan ca. Người Mỹ nói “Yêu là điên” kể cũng đúng.
          Tôi bay khỏi hành tinh  khi em cúi mặt
  ánh đèn vụt tắt
bỏ lại sau lưng trái đất hệt quả cam
trôi giữa dòng sông vàng bất tận
đôi tay trần xẻ nắng mặt trời
quấy lên những đám mây yên nghỉ nghìn năm
em cái mỏ neo cắm vào đất
giằng kéo đời tôi bằng sợi dây thừng hoang dã
những vết cắt trên ngực tứa máu
tôi bay như đứa bé khát nũng bứt khỏi vòng tay mẹ
chờ tiếng gọi yêu thương để lại quay về
                                                             (Khát)     
Từ thứ tình yêu vô thường đó, nông nổi, đầy những đam mê huyễn tưởng
                    Ngay cả lúc này em chìm sâu giấc đêm     
                    tôi vẫn bơi qua cơn mơ nhẹ và êm   
                    lẹ làng xáo tung đồ đạc
                    lấy đi mọi thứ trên thân thể    
                    dại dột để lại dấu chấm
Buồn thay! Đúng là đau như tử biệt sinh ly. Hoàng Vũ Thuật mường tượng ra cảnh cho đến khi nằm dưới huyệt lạnh, nhà thơ còn nhìn xuyên cả bóng tối:
                   Mắt em ánh sao hiện tới
                    Ngày xưa từng dắt thơ đi
                                                (Đề trên bia mộ ngày sau)
          Cả những khi "Anh líu ríu những lời vô nghĩa" thì nó vẫn là những lời có nghĩa thật. Là một người có tâm hồn thanh thoáng và từ tâm "Không bao giờ nguôi đi khát vọng, nguôi đi niềm say mê, nguôi đi tình yêu của mình" (Nguồn sa nuôi tôi). Anh nguyện "Tôi thành cây cho điệu ca đến ở", có lúc anh lại khiêm nhường muốn làm "Lặng thầm một chiếc neo" trên sông biển.
           trên đồng cỏ mượt mà loài dế nỉ non bài hát tuổi thơ
                                       về một thế giới xanh bất tận  
           trên cát bỏng xương rồng khô khan tua tủa gai nhọn
                                                                    chọc thủng trời sâu
          trên sóng bạc đầu truyền kiếp hải âu sải cánh
                                                                  dệt miền huyền thủy
          trên mây tím thổn thức ngàn năm trôi dạt không chốn nương thân                                                 
           trên dư vị hoàng hôn đánh thức chán chường cây lá                                                                 
                                                                               dưới nắng và gió
          anh đợi
                                                                   (Anh đợi)
          Hoàng Vũ Thuật đôi lúc không chủ tâm lập tứ cho bài thơ của mình, khi ấy tứ thơ tan biến vào trong mạch chảy câu chữ. Tâm hồn anh cứ chơi vơi, nuối tiếc, dắt nàng thơ đi miên man "Lang thang qua xứ sở phiêu bồng", không định hướng.
       Hàng nghìn năm nhân loại mỗi người một quân cờ vô định
       đường lạc đà hun hút bão cát xô lệch mặt người
       kẻ đào huyệt tự chôn mình dưới chân Kim Tự Tháp
       bầy chó sói nơi cánh đồng hoang hú rỗng đêm thâu
       người gieo vãi nhặt hạt mạch thơm bên dòng sông Nin chảy xiết
       xích sắt mòn cổ chân nô lệ da đen
       vó ngựa Vạn Lý Trường Thành lốc cốc tiếng ống xương va vỡ khô khan
       cuộc cờ âm thầm hết về nam lên bắc lên bắc lại về nam
                                                                                (Cuộc cờ)
            Nhà thơ có lần thổ lộ: "Thơ tôi là những hạt cát li ti giữa hai nếp nhăn vầng trán mẹ tôi. Nó là dòng chảy buồn buồn như dáng mẹ mảnh khảnh một mình băng qua cồn cát khi ánh tà xuống, hoặc những lúc bất ngờ gặp trận bão táp dữ dội ... Thơ tôi viết về cái nghiệt ngã, nỗi khắc khoải, dằn vặt về thiên nhiên, về đời sống, về tinh yêu ... thông qua dòng chảy ấy, viết về vẻ đẹp của nỗi buồn" (Nguồn sa thơ tôi). Anh luôn khích lệ  người đọc "Em đừng buồn - Điệu ca buồn hơn thế", "Rồi mùa đông sẽ qua - Như mùa thu đi qua".
         Khi hiện thực lên đến đỉnh thì nghệ thuật cất cánh bay vào thế giới tượng trưng. Gần chục năm nay thơ Hoàng Vũ Thuật đang có xu hướng rũ bỏ hiện thực cách tân siêu thực. Hoàng Vũ Thuật trăn trở, hăm hở đi tìm cái đẹp và cái mới trong Tháp nghiêng, Đám mây lơ lửng. Và mới đây tập Màu, tập  Ngôi nhà cỏ đều ráo riết theo đuổi xu hướng ấy. Hoàng Vũ Thuật đã rơi vào mê lộ của thế giới Màu, phân thân mình ra chơi đủ trò, đắm mình trong thế giới hư thực 
            xoá đi rồi vẽ lại
            nghẹt thở
            thêm một nét gầy thêm một nét
            chết lặng dưới chân cầu thang
            nàng khóc
                                                    (Họa sĩ)
Nhận thức thay đổi, tư duy sáng tạo cũng thay đổi. Nhà thơ đã tạo ra được những hình tượng lạ “Những buổi chiều lặng lẽ lên men”, “Mặt trời cuộn tròn đêm”, “cát thiền dấu chân”, “Đôi mắt miếu thờ”, “tình yêu bọc tã lót ru đóa  phù dung”, ‘Trăng bồ liễu -  Trăng như cỗ quan tài thủy táng”, “trưa lệch phai”… chữ nghĩa va đập thật lung linh.
          Bông Hoa vỡ ngàn cánh máu
          rỏ xuống lót ổ câu thơ
          bào thai thiên thần
(Hoa vỡ)
Những liên tưởng có sức hút :
          … không sao đi hết tiếng chim
          gieo vào lòng tôi hạt mầm
          thời lên bảy
 Yếu tố tâm linh và siêu thực hòa thấm vào nhau làm nên chất liêu trai :
           nàng lơ đãng nàng không nhìn rõ   
           vòng luân hồi xô đẩy đêm nay
           ta chỉ là linh hồn cây cỏ
            ta muốn ngừng hơi thở sau cùng    
            để ánh sáng vầng trăng khâm liệm
            chôn đời ta dưới gốc trần gian
       
                                                               (Cây trần gian)
Trong chất siêu thực nhà thơ đang hướng tới,  Hoàng Vũ Thuật viết được những câu thơ có sức nặng “ Chân lý đường cong - Cái nhíu mày - Đủ cho người ta đi thụt lùi ra cửa”, hay kẻ mộng du dò từng bước một -  những bóng ma tự vuốt lấy mặt mình” (Kiếp hoa). Và, thật là khởi sắc trong bút pháp
                    nằm dưới kia
                    một ông vua một hoàng hậu một người hầu
                    một thanh gươm một tuấn mã một mê nón
                    một lệnh truyền một trống giục một lời van
                    một trung thực một đớn hèn một điên loạn
Có khi, Hoàng Vũ Thuật viết "trốn chạy thế giới nghiệt ngã - câm lặng nấm mồ chật hẹp -  dưới vực thẳm tình yêu - em trao hết anh tất cả thuần khiết - mà thế gian gạt bỏ" (Đọc Kafka). Thật là bâng khuâng một tâm trạng cô liêu mình anh riêng một thế giới.         
        Trước sau, Hoàng Vũ Thuật vẫn giữ được chàng thiếu niên trong hồn mình. Nhà thơ nhìn đời bằng cặp mắt xanh non ngơ ngác, tơ đàn dễ ngân lên ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn ở mỗi con người, mỗi cuộc đời bằng những cái vu vơ, những chuyện đâu đâu  trong sự cảm thông tinh tế giữa khoảng khắc giao thời của tâm linh.
          Mỗi ngày gần, gần như thể
          Tan trong câu dòng nhựa nguyên lành
          Mỗi ngày xa, xa như thể
          Một kề biển biếc, một non xanh.

          Một ngày vui, một ngày thương tổn
          Đầy lên hai nửa con người
          Hạnh phúc và nước mắt
          Hai nhịp thuỷ triều khôn nguôi
                                                          (Mỗi ngày)
          Ra đời trong gió Lào cát trắng vi bom đạn chiến tranh khốc liệt, Hoàng Vũ Thuật đã luyện cho mình một giọng thơ trầm tĩnh. Thơ anh nặng giãi bày nội tâm. "Chất cá thể thiên bẩm" (chữ Vũ Quần Phương) đó thường gây được ấn tượng ấm và sáng.
          Phải tận cùng nước mắt
          Tận cùng nỗi khổ đau
          Cho câu thơ được thật
          Nửa hồn tôi phía  sau.
          Cái "Nửa hồn tôi phía sau" ấy của nhà thơ thật quý phái sang trọng. Bản thể thơ Hoàng Vũ Thuật đẹp và buồn. Buồn trong niềm vui, vui trong nỗi buồn.
          Chỉ mình tôi lúc này
          Nỗi buồn sâu hơn biển
          Ngàn con sóng khỏa đầy
          Không thể nào lấp kín
                                                (Chỉ mình tôi)
          Mặc dù tự nhận mình là Thi sĩ đen nhưng hồn thi nhân trong suốt như thuỷ tinh dễ vỡ, người nói năng thật nhỏ nhẹ cứ như sợ làm giật mình cả cỏ cây.
          Là người "trò chuyện với vĩnh hằng", cảm hiểu và thông tỏ được "sự huyn diệu của thiên nhiên"  nhà thơ kể rằng "có lần, trong đêm sao dày, một tinh cầu đã chạm vào môi tôi". Thơ Hoàng Vũ Thuật là những tiếng thầm thì gió nước của mùa thu diệu vợi dễ huyễn hoặc những linh hồn trinh trắng.
          Mùa đông chưa kịp tới
          Mà thu đi lúc nào?
          Giữa hai mùa vời vợi
          Chỉ còn anh và sao
                                                (Sao và anh)
                            
          Không rõ nhờ đâu mà những tín hiệu ngôn ngữ trở thành tác phẩm nghệ thuật? Nhờ điều gì giúp ta mà Bá Nha dùng tiếng lòng riêng đồng điệu được với tri âm? Thơ là gì vậy để mỗi khi những Tử Kỳ lắng nghe tự tạo ra từ trường mới với sức hút mạnh ghê? Cái ma lực ấy sẽ ở lại trong hồn người, ám ảnh đeo đẳng mãi, đôi khi làm luôn nhiệm vụ hướng đạo cho người ta? Nó là sản phẩm của nhà thơ hay chính cuộc đời? Những câu hỏi ấy ngỏ hầu được thi nhân trả lời bằng chính các dòng thơ máu huyết chảy ra từ tâm trạng day dứt đầy những khát vọng tin yêu.
           Ta lần lữa như người ra chợ
          Khi quay về chợ vãn, xế trưa
                                      (Với thời gian)
              Lẽo đẽo giữa chiêm bao trong cõi vô thường, Hoàng Vũ Thuật luôn cảm thấy mình là người chậm trễ đến sau, hồn thắc thỏm như vừa đánh rơi một vật gì quý lắm.
(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)     
(Tuyển tập Hoàng Vũ Thuật, Nxb Văn Học, 10- 2010)
THÁI DOÃN HIỂU   
---------------------------------------------
(1) Thơ Hàn Mặc Tử viết về con sông Nhật Lệ :
Chị ấy năm nay còn gánh thóc  
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang                        

CHÂM NGÔN SỐNG VÀ VIẾT

Tôi viết phê bình là để làm sáng giá và sang giá tác giả, tác phẩm văn học.

HOÀNG NGỌC HIẾN

Mỗi ngày gặp một người, họ là mảnh của thiên tài nhân loại. Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang.

CHẾ LAN VIÊN

Sở dĩ tôi nhìn được xa trông được rộng là bởi tôi đứng trên vai những người khổng lồ.

NIU TƠN