"Tôi trước tác là để phổ biến tâm thuật chứ không phải để kiếm danh lợi." THÁI DOÃN HIỂU

KHI ÔNG CHỦ NGÂN HÀNG CƯỚI... NÀNG THƠ

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Chủ Nhật, 21 tháng 3, 2010 0 nhận xét

THÁI DOÃN HIỂU


Giữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.
Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

Đây là chàng trẻ Oánh:
Nguyễn Ngọc Oánh yêu và anh rất dại dột cất công đi tìm bề sâu để khám phá bản chất của nó. Nhưng anh hiểu làm sao được chiều sâu thẳm của tình yêu (?) hệt như nhà vật lý Đức Risa Hanxơ khi ông này giảng giải cho sinh viên: “Vấn đề tuổi của trái đất quá ư phức tạp. Nó cũng khó hiểu như trái tim cô gái. Ta đứng trên mặt đất nhưng không biết thật chính xác về tuổi của nó, cũng như ta tiếp xúc thường xuyên với các cô gái, nhưng đố ai hiểu rõ họ nghĩ gì về ta”. Rốt cuộc, nhà thơ chỉ tìm được cái bâng quơ “ngẩn ngơ đi tìm”, để rồi “bước hẫng lên tiếng cười”. Tâm trạng chông chênh này của Nguyễn Ngọc Oánh là trạng huống mất cân bằng của tuổi xuân, khát yêu, nhưng không thể vượt rào vì những tín điều đạo đức của người có nhân cách.

Ai làm cho đất lên mây
Để mây hôn đất đắm say giữa trời
Tôi - nàng cách một tiếng cười
Mà sao bạc mái tóc rồi vẫn xa

(Viết dưới chân Hoàng Liên Sơn)

Thực chất, tình yêu trong thơ Nguyễn Ngọc Oánh chỉ là một thứ tình bạn được nâng cấp lên mức cao sống động bởi sự chia biệt giới tính. Trước bạn đọc, nhà thơ đã phải thật thà cởi mở thanh minh rạch ròi:

Tôi - nàng nửa bạn, nửa yêu
Nửa mưa, nửa nắng, nửa chiều, nửa mai
Nửa đêm chợt tỉnh giấc dài
Quờ tay chạm ánh trăng ngoài chấn song.

(Nửa)

Chính thứ thơ ca - mặt trời của cuộc sống này đã đem đến cho thi phẩm của Nguyễn Ngọc Oánh những bài thơ tình hay cả tứ lẫn lời.

Thơ Nguyễn Ngọc Oánh đã giúp ta khám phá sâu hơn bản chất phái đẹp. Theo anh, phụ nữ là một nửa bầu trời cấu tạo nên nửa trái đất. Họ không bao giờ khờ khạo. Họ sinh ra ở độ tuổi mấy nghìn năm trước công nguyên. Phụ nữ rõ ràng thông minh hơn nam giới vì họ biết ít hơn nhưng hiểu nhiều hơn. Các nàng thường hay lập lờ đưa vào tình bạn cái mà họ mượn tạm ở tình yêu. Trong yêu đương, biết 100 người phụ nữ thì vẫn không hiểu được ai sâu, nhưng nếu biết thật cặn kẽ một phun nữ thì sẽ hiểu được cả trăm người. Ở người phụ nữ, nhan sắc quan trọng hơn trí thông minh, bởi cánh đàn ông ưa nhìn hơn là thích suy nghĩ. Còn các quý bà thì rất thích được khen tặng dẫu nhan sắc không được mặn mòi cho lắm, vì vậy các nàng hay bị đàn ông tìm mọi cách làm hại.

Ở đời, có ba thứ làm lòng người mát dịu hẳn lại, quên hết mọi tục lụy phiền toái là: nước, hoa và sắc đẹp phụ nữ. Dường như nơi nào có người đẹp thì nơi đó có tiếng thở dài của đàn ông. Nguyễn Ngọc Oánh thuộc dạng người thích phiêu lưu tình ái. Trong trời đất không có thứ gì phiêu lưu nguy hiểm cho bằng yêu đương. Anh thích thú say mê mạo hiểm dấn thân vào lãnh địa này. Nguyễn Ngọc Oánh giấu gì cũng được trừ khi yêu. Anh thích biểu dương, làm dáng trước mỹ nhân và âm thầm sẵn sàng chịu thua thiệt trong bóng tối. Khi thần yêu xâm chiếm, ngọn đèn tình của thi sĩ chỉ còn cháy sáng một bên y như thể không yêu là không còn được sống “cuộc đời anh khởi sự tự em đây” (Aragông). Nguyễn Ngọc Oánh đã để lại trong thơ một trạng huống chống chếnh say của một bên. Cách tạo tứ quả là duyên dáng tội nghiệp. Phạm Tiến Duật có lý khi anh gọi Nguyễn Ngọc Oánh là người làm thơ “cả nghĩ”, Bằng Việt trầm trồ “Tài hoa và phóng túng”. Tôi thêm: “đa tình” nữa! Nguyễn Ngọc Oánh thuộc nòi tình. Cặp mắt thi sĩ của anh hễ liếc vào chỗ nào thì chỗ đó lung linh lên, chới với.

Đây rồi Quán Dốc cây đa
Cái mầm quan họ nõn nà. Kìa em
Người không hẹn - người vẫn lên
Cậy nhờ lúng liếng về têm cơi trầu
Ai vờ như chửa quen nhau
Nụ cười ai giấu đằng sau câu chào
Mây bông chết đuối sông đào
Còn tôi chới với rơi vào mắt ai…
(Người ơi, quan họ…)

Người nào không có được một ý trung nhân để mà say thì bất cứ ở đâu người đó vẫn là kẻ cô độc vật vờ như cái bóng dẫu sống chen vai thích cánh giữa mọi người. Không được yêu thời trai trẻ, không được thỏa mãn chí tang bồng thời oanh liệt, Nguyễn Ngọc Oánh yêu bù bằng cách đi tìm người đẹp để yêu - yêu trong mộng tưởng. Đố ai cấm được nào!
Đây là chuyện Bích câu kỳ ngộ mới, cảnh Tú Uyên gặp mặt Giáng Kiều ở Hồ Tây, Hà Nội.
Mắt em buông xuống hồ đêm
Thuyền anh trên bến cũng chìm, lạ chưa…
Em như tai vạ khó ngừa
Bỗng đâu giáng xuống không chừa anh ra
Em như chuông vẳng mây xa
Lòng anh khắc khoải thánh ca không lời
Xin đừng thả ý nửa rời
Kẻo mà chân gió rối bời bước đi
Thôi đừng rót nữa làm chi
Kẻo mà rót cả làn mi em cười.

(Một thoáng Tây Hồ)
Đến xứ lạ Inđônêxia, Nguyễn Ngọc Oánh say người đẹp trong sóng rượu :
Em rót cho anh chén tím này
Biển trăng cùng uống với ta đây
Nâng lên sóng biển xô vào chén
Đặt xuống thì trăng lại rót đầy.
(Chén rượu Bali)
Sang Tôkiô, anh nguyện cầu người đẹp xứ Phù Tang :
Xin em chớ là băng
Lóng lánh vậy mà trơn lắm lắm
E tình anh trượt ngã giữa đất bằng
Xin em chớ là tuyết
Tuyết như bướm lượn dăng dăng
Ngại chạm vào tình em tan mất.
(Mệnh)
Lên Tây Bắc, tiếp cận gần gụi với các phù xao Sapa xinh đẹp, nhà thơ lâm nạn ngay :
Bập bùng lửa than ai quạt
Nào ngờ đã bén sang anh
(Con gái Sapa)
Người thơ liền bị đắm đuối và cuốn ngay vào cái lễ hội yêu đương xứ mường “Tiếng khen dìu đặt cuối bãi – Kéo chùng cái đêm tự tình”. Thi sĩ bàng hoàng “Phía nào hương cũng bủa vây – Tôi em cùng vướng ai đây gỡ giùm” (Cánh lan rừng). Đến tận Mèo Vạc, Hà Giang, đi chợ tình Khau Vai, Nguyễn Ngọc Oánh tìm được một nét riêng để mỉm cười “Nhỡ nhàng từ thuở giêng hai – Cái tình vẫn trẻ, cái vai đã gù”. Thi sĩ chạm tới tận tâm can nỗi đau riêng của đôi lứa “Niềm vui đi gặp nỗi buồn - Vầng trăng côi cút tủi luồn chân mây” (Chợ tình Khau Vai). Trước những cuộc tình đơn phương ấy, chàng Đông Giăng nhà ta mê đên mức “Trời cho cái miệng thậm xinh - Bàn chân nát đá cuối ghềnh vẫn theo”; sảng đến độ “Cái lần tay chạm phải tay - chạm miền đất lạ có cây ngô đồng”. Bị hớp hồn bởi “Sao em hai lúm trăng thề vẫn cong”; đến đỗi “Tóc mai mỏng manh cột ai khó về” (Cô kiểm ngân). Trắc trở quay ra ốm tương tư “Ngờ đâu chúng mình soi gương bằng nước mắt” (Đối thoại tình). Tự chữa cho mình “Anh ngồi dỗ phía bên kia nỗi buồn” (Lời ru ban trưa). Bồi hồi như đứng đống lửa, đành phải liều thôi “Anh vịn mnỗi nhớ gập ghềnh anh sang”. Thi sĩ si tình đến mức “Với em anh muốn làm nô lệ” (Tự thú) cũng là hợp lẽ. Rồi chàng ta quyết định mở tín dụng tình (!) để “cân đối” lại tình yêu của mình. Ai cũng thấy tình yêu là sự yêu thích tuyệt đối dành riêng cho một người hơn hẳn mọi người. Anh chàng tù binh của tình yêu than.
Nợ tiền trả hết lại vay
Nợ tình càng trả càng đầy. Cực chưa…
Ước chi cứ được nợ nần
Để người đòi nợ ghé sân hàng ngày
(Nợ)
Cuộc đời là bông hoa, tình yêu là mật hoa. Thiếu ăn thể xác ốm o, thiếu yêu linh hồn cũng rã rời vật vã. Người Pháp bảo: ”Thiếu yêu như thiếu nắng”. Cuộc sống thiếu tình yêu thì không thể gọi là sống mà chỉ là tồn tại. Đây là những giây phút ngất ngây thần tiên nơi trần thế của danh sĩ với giai nhân. Chính tuổi già không thể gìn giữ Nguyễn Ngọc Oánh thoát khỏi vòng ái ân nhưng tình yêu đã bảo vệ thắp lửa cho thi nhân thoát ra khỏi tuổi già. Tình yêu quả là không có giới hạn, chừng nào trái tim Nguyễn Ngọc Oánh còn đập thì anh còn yêu. Nó chứa vẻ đẹp thanh cao, trong sáng, sang trọng mang lý tưởng thẩm mỹ kỳ lạ lung linh như bảy sắc cầu vồng ảo giác. Khi yêu thật sự người ta mới thực sự được sống làm người. Càng tiến sâu vào tình yêu, linh hồn con người càng trở nên bất tử.

*
Và, còn đây là ông lão Oánh:

Tháng năm xanh ai đốt
Tàn tro bay trắng đầu
Về quê thăm bạn cũ
Mây bồng bềnh mắt nhau
(Thăm bạn)

Thăm bạn là một bài tứ tuyệt già giặn. Nhà thơ có tài lấy một sợi tóc từ xanh hóa bạc mà gói được cái ngắn ngủi phù du bi thương của cả một kiếp người!
Kể ra, tôi tán thành ý này của Trần Ninh Hồ. Lấy mái đầu bạc than vãn tuổi gìa để tham sinh úy tử và đau đời thì cũng chẳng có gì mới. Người xưa từng than “Trong gương thật chẳng hiểu – Sương thu vào lối nào” (Lý Bạch); “Tóc hai phần bạc bởi thương thu” (Nguyễn Trãi); “Quốc thù vị báo đầu tiên bạch” (Thù nước chưa trang đầu vội bạc - Đặng Dung); “Bạc đầu chỉ mải lo cơm áo” (Nguyễn Du); “Nước thời gian gội tóc trắng phau phau” (Đoàn văn Cừ). Lớp trẻ sau này, Nguyễn Duy giữa chiến trường từng gối lên cánh tay mình ngủ đền nỗi “Đã nghe sợi tóc bạc trên tay mình”. Trương Nam Hương lại rất hoảng “Thấy thời gian chạy vù qua mái đầu”. Lê Quốc Hán sợ hãi đến mức “Thời gian như rìu sắc - Đẽo bạc cả đầu xanh”… Thế thì, cái mới của anh Oánh là ở chỗ nào ? Xin thưa là ở cách cảm, cách nghĩ, cách phô khác thường ấy. Rằng là mỗi giây chúng ta đang sông đây (chứ đừng mong chi nói năm nói tháng) là ta đang vận hành về cõi chết. Có ai hiểu được sức tàn phá ghê gớm của thời gian và hóa công ? Thi nhân đã hóa giải được và giải hóa khá hay khi dùng một hoán dụ gợi một liên tưởng mạnh :
Tháng năm xanh ai đốt
Tàn tro bay trắng đầu
Hai ông bạn cố tri thuở chăn trâu cắt cỏ, đặt lờ thả ống trúm, ngày đi tóc hãy còn xanh. Sau bao nhiêu năm xa cách nổi chìm, giờ gặp lại nhau nơi cố hương trong cảnh quan dân lệ cách (một ông là Thứ trưởng bộ Tài chính kiêm Phó Thống đốc ngân hàng Việt Nam, một ông là nông dân chân bùn tay lấm). Họ ôm chầm lấy nhau, mái đầu bạc xát mái đầu bạc. Tóc hai người bạn đã như mây trắng xóa, soi vào mắt nhau bồng bềnh, rưng rưng cảm thương dâu bể đến nghẹn lời ! Tứ thơ hẹp mà mở, kiệm lời mà vang. mộc mà sâu thẳm.
Về quê thăm bạn cũ
Mây bồng bềnh mắt nhau.
Xao động bâng khuâng trước lẽ biến dịch của trời đất và kiếp người, bài thơ đã đánh thức dậy bao kỷ niệm tươi nguyên ấm nồng trong thời niên thiếu xa vời yêu dấu tận làng quê. Một đồ vật tốt khi mới, một người bạn tốt khi cũ, người đời tâm niệm thế. Mái tóc bạc quả là một chứng tích sống động, là “vòng hoa danh dự”(Kinh Thánh), là văn khố hùng hồn của quá khứ.

Đã từng đi công cán khắp năm châu bốn biển, sành sỏi với đời, Nguyễn Ngọc Oánh đã đúc rút được khá nhiều những châm ngôn lịch lãm bằng thơ: “Nước mắt tuôn trong veo- Hỏi rằng nguồn có sạch?;”Sao nỡ đập vỡ kính- Để nhận về muôn gươm!”;”Dẫu là đỡ kịp hoa rơi -Thì làn hương vẫn chơi vơi cuối cành”; ”Hoa rơi trên đất vẫn hoa - Hoa thơm lạc tận xó nhà vẫn thơm”; “Núi cao không phải nhiều lời - Nụ cười chẳng phải phiên dịch”; “Người qua biên giới trình hộ chiếu - Gió qua biên giới mây chào mời”; “Số trúng - người đời nâng niu / Vé trật - hẩm hiu trắng hè” (Giao cảm không màu); “Đầu nguồn nước mặn tiếng chim - Cuối sông nước mặn nỗi niềm phù sa” (Tản mạn nước)... Không phải cho là mất, chính cho là được. Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận vào, con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi, Nguyễn Ngọc Oánh đã thấm nhuần được giáo lý của nhà Phật:

Trước bàn tay ngửa ra
Thấy mình thêm nghèo khó
Trao món tiền nho nhỏ
Thấy mình vừa giàu thêm

(Trước bàn tay)

Anh lấy lời một nạn nhân chiến tranh, tố cáo chiến tranh hủy diệt bằng chất độc màu da cam “Tru di tam tộc - ba lần chém - Đầu độc một đời - giết nối đời” (Kể làm chi). Anh cảm hiểu đời sống và tâm trạng lá rụng về cội của người xa xứ “Ông cõng bà, dẫu là nắm tro, mà dường rất nặng - đôi mắt đục mờ dõi cuối trời xa” (Nơi xa xứ) rước nắm tro vợ về cố hương để được nằm cạnh bên mẹ cha. Anh suy nghĩ sâu về thân phận con người trong chiến tranh trước bức tường lính Mỹ chết trận ở Việt Nam trên đất Hoa Kỳ. Anh để mắt bận lòng đến những em nhỏ bới rác “Phận người như lá đài bi - Mưa tơi tả dập cớ chi còn vùi”...

Nguyễn Ngọc Oánh viết về cha và mẹ mình với nhiều ân tình ruột thịt. Cha anh là một ngư dân “Lọt lòng đã lấm cát - Tiếng sóng thay lời ru - Biết bơi trước biết đứng - Tanh nồng những giấc mơ” (Cha và biển), người cha mà đời sống lam lũ đến mức “Nụ cười luôn đi vắng - Nhọc nhằn tới buông neo” (Cha và biển). Mẹ anh là một người phụ nữ Việt hiền đức, đảm đang, trung hậu. Ngày mẹ mất, tiễn mẹ ra đồng an nghỉ, Nguyễn Ngọc Oánh thấm thía tổng kết cuộc đời cơ cực lam lũ của Người Mẹ trong những nét phổ quát khắc chạm:

Con nhìn vào đâu cũng hình bóng mẹ
Liêu xiêu gánh rạ lội ngược cơn giông
Tất bật gánh củi lún cả chiều đông
Đời mẹ như đòn gánh không mấu
Vận rủi đeo bám, rơi tuột vận may
Một đời bán lưng bới tìm hạt gạo
Một đời trốn hoài vẫn trong cơn mưa
Áo mới một đời vẫn là áo cưới
Tên gọi một đời vẫn là tên con
(Gió đưa cây cải về trời...)

Trong đời làm thơ, anh viết cho mẹ sáu bài. Bài nào cũng hay, mỗi bài mỗi vẻ, tỏ rõ anh là con người hiếu đễ luôn yêu kính đấng sinh thành.
Nguyễn Ngọc Oánh dành cho người vợ tao khang của mình những lời lúa khoai mộc mạc đậm đà nghĩa tình:

Vết nhăn trên trán rạn nhiều
Là bao vất vả sớm chiều trên nương
Chân chim đuôi mắt mờ sương
Là khi con ốm chiếu giường rỗng tênh
Vết hằn khóe miệng nổi nênh
Là khi gạo củi một mình kiếm mua
Hay hờn hay giận hay đùa
Là ngần ấy vị ngọt chua đã từng
(Mặn muối gừng cay)

Chị Tâm - người vợ thuần phác của anh đã từng đi định cư ở vùng kinh tế mới “Lấy chồng ở với mẹ chồng - Mái tranh thì mỏng bão giông thì nhiều - Tay đào gốc, tay cầm cày - Tay dìu mẹ, tay vá may ngùi ngùi”. Nhà thơ trân trọng cái giá của hạnh phúc vợ chồng những lần về nông trại nghỉ phép “Chập chờn giấc ngủ chăn sui – Có em, gió lạnh sụt sùi ngoài phên”. Và anh rất yên lòng cho rằng “Chẳng hoa hậu, chẳng là tiên”, nàng là “bông mai thắm nở bên hiên bốn mùa”.
Nguyễn Ngọc Oánh là một ông ngoại nhân từ. Nghệ thuật là ông của anh đã tạo nên chất thơ dí dỏm, dễ thương, gần gụi tâm sinh lý trẻ. Những bài học luân lý trong thơ anh dễ thâm nhập vào tâm hồn trẻ.
Nhà thơ đã tạo ra được những lời ngộ nghĩnh từ trong ruột trẻ thốt ra miệng :
Vo ve con muỗi quấy
Nhắm mắt lại. Ngủ đây…
Vo ve… nào ngủ được
Ước gì nhắm được tai.
(Vo ve)
Nguyễn Ngọc Oánh đã tái tạo được cảnh hừng đông rất hoạt ở làng quê đầy ấn tượng tuổi thơ :
Ó o…từ nóc cây rơm
Chú gà phát lệnh thổi cơm khắp vùng
Mặt trời bật lửa đằng đông
Cả làng nhóm bếp bập bùng ban mai
Mẹ ra kéo nước giếng thơi
Chị mây dậy muộn gượng cười lên theo
Cùng em – tinh nghịch chú mèo
Meo meo thể dục bài trèo cây cau.
(Hừng đông)
Bài học trống đánh xuôi kèn thổi ngược là cả một câu chuyện kể hài hước của người đạ công phu quan sát :
Cả họ kiến ùa ra
Kéo con sâu bắt được
Tốp gò lưng kéo xuôi
Tốp ra sức kéo ngược
Mấy chàng kiến hăng hái
Leo tít lưng con sâu
Tưởng múa may thật nhộn
Con sâu vèo tận đâu
Nhưng con sâu ì đó
Chú vào gặp chú ra
Chụm đầu nhau than thở
- Họ kiến yếu thế a ?
(Kiến tha mồi)
Đến những câu sau đây thì không riêng gì trẻ mà ngưởi lớn cũng thích :

Ran một tiếng ve
Mùa hè cởi áo
Gió về se lạnh
Mây thu mặc vào
(Đổi mùa)
Viết cho con trẻ là điều cực khó bởi trẻ em không phải là người lớn thu nhỏ lại. Nguyễn Ngọc Oánh là người có tình yêu trẻ, có năng khiếu và tấm lòng bảo mẫu, bàn tay chăm chút của người làm vườn.
Đọc các thi phẩm của nhà thơ Nguyễn Ngọc Oánh, chúng ta thật sự vui sướng trước những bữa tiệc thịnh soạn đãi tâm hồn ta với những món đặc sản ngon lạ được chế biến bởi một tay đầu bếp giỏi. Nguyễn Ngọc Oánh sở trường về thơ tứ tuyệt, thơ hai câu và thơ lục bát. Anh viết nhiều và khá thành công. Tứ tuyệt không mùa có 111 bài, Ngẫu hứng đôi vần (thơ hai câu) có 280 bài, Lục bát nhà quê có 56 bài. Thơ Nguyễn Ngọc Oánh, thoáng, sâu đậm chất triết lý dân dã trong trẻo, chất tình tứ của hội làng, đằm thắm nét truyền thống và bộn bề cốt cách hiện đại. Thơ anh có đến chục bài toàn bích, có nhiều câu, đoạn gây xúc động thẩm mỹ mạnh. Cũng như thơ Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Hoàng Trần Cương… mật độ những bài hay, câu hay trong tác phẩm Nguyễn Ngọc Oánh khá dày. Thơ anh hay ở cái lẽ, cái lý, cái nghĩa, cái tình ở đời, duyên dáng trong đời, thực nhuyễn trong ảo, chất thơ như ánh trăng thu cứ bàng bạc trong lời :
Hè về sen tỉnh giấc mơ
Lá xòe vẫy nón, non tơ búp chờ
Mùa thu sen lặn đáy hồ
Để mùa thu cứ nhẩn nhơ đi tìm…
(Hoa đến hoa đi)
Sương đêm treo tiếng ru hời
Sương mai treo lửng mặt trời cành mai
(Tản mạn nước)
Mẹ đi gánh nước ban mai
Gánh hai ngọn núi với hai mặt trời
(Về Phong Châu)
Rụng hoa quả đã nhú rồi
Thấp thoáng trong quả bồi bồi đã hoa
(Giao cảm bốn mùa)
Nụ cười em thật vu vơ
Câu thơ anh bỗng dại khờ trước hoa
(…)
Nợ trăng thì trả tiếng đàn
Nợ biển thì trả chớp ngàn ngang mây.
(Tản mạn nước)
Sao đêm cắt sóng làm hoa
Khỏa tay xô lệch thiên hà chơi vơi
(…)
Ôi, những câu thơ đẹp đến là… sững sờ ! Còn nữa “Âu Cơ địu nắng theo chồng - Bế trăm tiếng khóc qua sông sóng cồn”… “Phong Châu núi đứng núi ngồi - Tiếng chim thì dốc, tiếng cười thì nghiêng” (Về Phong Châu). Gửi từ biển thẳm về đất liền “Ở đây nỗi nhớ có tên - Nỗi buồn dậy sóng dềnh lên lại chìm” (Thư từ đảo). Trong giao tiếp, tránh sao khỏi những khi lỡ lời, anh ân hận “Cách chi buộc được gió trời - Để tôi nhặt được đôi lời nhỡ buông” (Nhỡ buồng). Đây là cách nhà thơ hoài niệm trước mảnh vườn tuổi thơ “Cái đuôi của chú chìa vôi - Quệt vào nỗi nhớ của tôi suốt chiều” .
Thơ Nguyễn Ngọc Oánh trữ tình yêm ả, nhưng có lúc cũng nổi gân guốc, gây ấn tượng và gieo tâm tyrạng “Sợi nắng cõng sợi mưa” (Tóc), “Bão hú rỗng đêm buồn” (Lúa); “Anh gặp lại cây khế chua nhăn mặt cả gió Lào” (Trở về), “Giọt nước mắt mất con nào cũng mặn chát như nhau” (Viết bên bức tượng lính Mỹ chết tronng chiến tranh Việt Nam), “Mặc đôi quang thủng giữ lành tiếng rao” và “Mưa như trút cả cơn mưa cuối chiều” (Mưa Huế).
Bên cạnh những lý thú trên, Nguyễn Ngọc Oánh nên dè chừng sự luẩn quaq63n, trùng lặp, lặp mình, lặp người…
Nghệ thuật có trăm cách biểu hiện, cần sáng tạo ra cách nói mới. Những câu “Thuyền tôi vượt thác chòng chàng câu ca”… “Nhớ thương lội ngược lời ru về ngàn” (Tản mạn về những dòng sông) quả có sinh khí thật nhưng là cách phô diễn không còn mới mẻ nữa.
Thơ Nguyễn Ngọc Oánh đang chớm có xu hướng văn xuôi hóa nhằm tạo một vẻ đẹp gân guốc và đời thường.
Thơ anh nhìn chung qua các tập là thứ thơ đều đều monoton, không có điệp khúc cao trào. Hãy coi chừng: đi trên đại lộ dài hun hút mà hai bên đường phố xá, nhà cửa chỉ đúc toàn một kiểu thì còn gì chán mắt bằng. Những biến tấu riêng cho mỗi bài sẽ giúp anh khắc phục được sự đơn điệu khi sử dụng thể lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ truyền thống, kể cả chủ đề tình yêu quá quen thuộc với tác giả để có được cái riêng khó lẫn thơ người.
*

Ngân hàng là nghề, thơ là nghiệp. Nguyễn Ngọc Oánh là người thăng tiến, hanh thông, đạt vận cả nghề lẫn nghiệp. Nghề để nuôi thân, nghiệp để nuôi hồn. Đã mắc vào nghiệp dĩ này rồi, anh là người có thực tài thơ. Thật kỳ diệu là nhà kinh tế học này - người đã góp phần giữ cho đồng tiền khỏi mất giá lại có thể đi đến đâu là hòa lòng mình với vạn vật, trẻ thơ và già giặn trong thi ca đến thế.

Nguyễn Ngọc Oánh đã tự bạch: “Tôi làm nghề ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, dám quyết đoán và giàu mơ ước... điều này gần với thơ. Hàng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng gần đến thơ... Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có. Nàng thơ kiêu sa thường đến lúc nghỉ ngơi. Vì thế, dù có bận đến đâu tôi vẫn có thể sống với nàng, miễn là vẫn rung động vì nàng:

Việc công không láng cháng
Tản mạn chút mộng mơ
Bạc tiền như gió thoảng
Còn lại một túi thơ

Người xưa đặt vấn đề khá nặng về chức năng của thơ ca: Trang Tử viết “Thi dĩ đạo chí” (Thơ lấy đạo để nói lên ý chí); Tuân Tử phán: “Thi ngôn dĩ kỳ chí dã” (Thơ để nói chí mình) dĩ nhiên rồi, nhưng khi Bạch Cư Dị truyền dạy: “Thơ bổ sát thời chính” (Thơ giúp xem xét việc chính sự); Trần Tử Ngang còn thêm “Thi dĩ bổ quốc” (Thơ lấy nghĩa giúp nước) thì điều đó mới thật là trọng đại. Thơ của Nguyễn Ngọc Oánh là thứ thơ “Nhặt được của một cõi lòng biết hát và biết đau”. Thi pháp của anh đã chín, vững vàng. Điều đáng lưu ý là Nguyễn Ngọc Oánh đã và đang cho thơ bắt rễ sâu vào thực thể xã hội để hút lấy tinh chất của Đời. Muốn làm một nhà thơ lớn hay bé còn tùy thuộc căn bản ở vấn đề xã hội mà nhà thơ phản ánh lớn hay bé. Các nhà thơ không nên chỉ chăm chút tỉa tót cho gương mặt mình thật mỹ miều mà lờ đi những vấn đề nóng bỏng, then chốt của thời cuộc. Công chúng bạn đọc sẽ quay lưng lại với thơ chừng nào thơ không quan tâm đến số phận của nhân dân và đất nước. Trần Nhuận Minh với tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ đã tái bản đến lần thứ 17 là tấm gương tiêu biểu đi tiên phong về ý tưởng này.

Thơ - với Nguyễn Ngọc Oánh tất cả đang phía trước. Anh hãy vững tin vào điều đó. Hơn mười bốn năm qua, chúng tôi đã mở lòng ra đón đọc từng bài một của người đăng tải trên các báo, cùng 6 tập thơ chính đã xuất bản với một cảm tình nồng thắm.
Chúng tôi không chúc anh Oánh làm được nhiều thơ, in ít vậy thôi, nhưng là thứ trầm tích. Cứ theo hướng ấy, anh có thể ngồi vững giữa chiếu thơ.
(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)
THÁI DOÃN HIỂU
(Nguồn: NGUYỄN NGỌC OÁNH – THƠ
TÁC PHẨM & DƯ LUẬN, nxb Văn Học 12-2009)

THÁI DOÃN HIỂU

Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.

Đoàn Thị Lam Luyến là nhân vật độc đáo nổi loạn tình yêu trong thơ!
Nàng là người đàn bà đẹp “da trắng mịn màng, mắt huyền thăm thẳm” (Đặng Nguyệt Anh), đa tình nên nặng nợ đa đoan. Lam Luyến có cuộc đời lận đận, khát yêu, vồ vập yêu, dại yêu, xây hạnh phúc như “làm nhà trên lưng cá voi”. Nàng quyết liệt dữ dằn châm khói tuyên chiến với tình yêu!
Em đã đoạt anh từ tay người đàn bà kia
giống như người đàn bà kia đoạt anh từ tay người đàn bà khác
Bỗng chốc anh trở thành tư bản
Trong tay những kẻ chỉ yêu tiền!

Ghen như sôi và giận như điên
Người đàn bà vớt trái chín trên tay vừa bị lăn xuống đất

Ghen như sôi và yêu như điên
Người đàn bà với ước mơ chưa thành sự thật
Anh, dễ thương như cây và hiền lành như đất
Trong tay những kẻ chẳng yêu vườn!

Em đã đón anh về
(Chiến tranh)
Hẩm hiu và bẽ bàng là cảnh giành giật người tình, nó xâu xé ngấu nghiến như diều hâu trước con mồi tươi rói. Thật là quyết liệt đến... đáo để! “Khạc chẳng ra cho nuốt chẳng vào” (Nguyễn Gia Thiều). Phụ nữ không biết e thẹn giống như cá tươi thiếu muối.

Một mình Lam Luyến táo gan phát động một cuộc “chiến tranh tình ái” Chiến tranh kết thúc, chiến bại thường thuộc về nàng. Thương tích đầy mình nhưng nàng vẫn lao lên quyết sống mái với tình yêu lần nữa, thêm một lần nữa..
Đoàn Thị Lam Luyến thường than thở cho tình duyên éo le của mình, thật ái ngại và tội nghiệp “Cơn mưa ảo ảnh – Vẫn ngoài xa khơi – Con tim hành khất – Tứ mùa nắng nôi” (Ảo ảnh). Phụ nữ thường yêu được người đàn ông mà họ lấy làm chồng hơn hơn là lấy được người đàn ông yêu họ. Tình yêu chứa trong mình nó tính đỏng đảnh như gió luôn đổi chiều. Nhiều cuộc tình tan vỡ phần lớn bởi cái lưỡi quá dài của người đàn bà. Hôn nhân giống hệt như cái kéo. Hai lưỡi kéo thép lạnh phối hợp với nhau chặt chẽ, chúng chuyển dịch về hai hướng ngược nhau và sẵn sàng cắt nát kẻ nào xen vào giữa.

Sau mỗi cuộc tình, Lam Luyến bình tĩnh như một luật sư trước tòa án của ái tình, cất lời tỉnh táo biện hộ khá dông dài cho chính mình. Lời lẽ rất hay, thấu lý đạt tình nhưng sự thật cuộc đời lại không phải vậy. Đối với Lam Luyến, khoảng cách từ người tình thứ nhất đến người tình thứ hai xa vời vợi hơn là khoảng cách từ người tình thứ nhất đến người tình thứ mười.
Có đâu như số trời đày
Phong trần cả mấy vạn ngày thế gian
Đa tình liền với đa đoan
Tơ duyên cứ nối lại càng đứt thêm.
(...)
Khởi điểm của vấn đề có lẽ bắt đầu từ luận điểm của Ănghen “Bản chất của tình yêu là không thể chia sẻ”. Trong dân gian, người Việt chúng ta cũng thật dứt khoát về khoản này “Nhường cơm nhường áo, không ai nhường vợ nhường chồng”. Ghen có những cái lẽ công bằng và hợp lý của nó, ghen để gìn giữ bảo vệ cho ta cái thuộc về ta không thể bị kẻ khác tước đoạt. Thực chất nó là biến tướng của tính tư hữu.

Quá yêu sinh... ghen. Quá ghen sinh... sự! “ghen như sôi và yêu như điên”. Ghen tuông là thiếu tin tưởng và thiếu yêu quí đối với người ta yêu và cả với chính bản thân mình. Nó hàm hồ xúc phạm thái quá người được yêu và là nguồn gốc của mọi dày vò, đau khổ cho người đang yêu, “làm cho bể ái khi đầy khi vơi” (Kiều). Ghen tuông thiếu hẳn đi phẩm tiết tín nghĩa. Tình yêu của người ghen giống như lòng hận thù chứ không phải là tình yêu. Trong những cơn điên loạn, độc tài là hình thức hoàn chỉnh của ghen tuông. Nó biến tổ ấm uyên ương thành địa ngục. Ghen là hành vi đáng khinh vì kẻ ghen thật sự không yêu nhau và có quan điểm xấu về bản thân ở cả hai phía. Ghen tuông chứa nhiều tự ái hơn là tình ái. Yêu đương và hận thù luôn đặt tấm màn che trước mặt làm cho người ghen khi ghen bao giờ cũng nhìn sự vật qua kính phóng đại: kiến thành voi, thấp hóa cao, thằng lùn thành gã lêu đêu, trắng ra đen, tốt hóa xấu..., cứ thế, nỗi hoài nghi chóng vánh hiện hình thành sự thật hiển nhiên. Đa nghi dẫn đường cho phản bội. Tình yêu tìm hoa hồng, ghen tuông đâm sầm vào bụi gai vằng lồ. Ghen tuông là bản tính cố hữu của người đàn bà. Đàn bà là giống si tình, đàn ông là phường bội bạc. Yêu thương nhiều thù oán nặng. Yêu nhau lắm cắn nhau đau. Yêu đương nếu ẩu tả thì danh dự tiêu ma. Trong tình yêu, con người vướng phải nhiều sai lầm nhưng ghen tuông khiến ta phạm phải nhiều lầm lỗi tai quái, lố bịch nhất.

Ai yêu thật sự người đó không ghen. Tình yêu là lòng tin, nó là nền tảng tạo nên sự bền vững của tình yêu. Khi ghen chính là lúc ta yêu. Người chưa biết ghen là chưa biết yêu. Kẻ tầm thường ghen vì sợ bị cướp mất người yêu, còn người cao thượng ghen vì sợ vật báu của mình bị vấy bẩn.
Ái tình ngự trị không có luật. Nếu thần yêu cứ từ tốn và điều độ tiến tới thì trên đời không có gì tốt đẹp hơn. Người Anh bảo “Love is blind, as well as hatred” (Tình yêu vốn mù quáng). Vâng, đó là tên hướng đạo sinh mù quáng. Mọi người đang yêu đều có cặp mắt quáng gà. Coi chừng, theo nó dễ lạc đường như chơi.

Tình yêu đã túm lấy nàng thơ tàn bạo bẻ vụn ra mà Lam Luyến cứ phải dằn lòng yêu trở lại. Lam Luyến rơi vào khoảng trống cô độc khủng khiếp. Cô đơn nằm kẹt giữa âm ty cõi người.
Khi thôi yêu tự chia ta thành bóng
Sống vật vờ hai nửa ở hai nơi
Bóng từ mình, một mảnh vỡ ra thôi
Nhưng từ bóng không trở về ta nữa
Và đơn côi chiếc bóng mãi trên đời.
(...)
Nàng thiệt thà mà tường trình lại cái cơn dại dột của lòng mình:
Nước thì gần đất thì xa
Xui tôi làm nhà trên lưng cá voi
Cầu giời cho cá đừng bơi
Tháng ngày, một chốn đôi nơi, mong chờ...

Một lần tôi thử đùa chơi
Que diêm đốt cháy một mồi lửa rơm
Cá vùng xuống đáy đại dương
Bỏ tôi trong mảnh ván thuyền trong tay
(Trên lưng cá voi)
Nàng tự nhún mình:
Em đam mê đến độ hững hờ
Anh chầm chậm như là yêu thật vậy
Nhưng em biết, em chỉ là trang giấy
Lúc mềm lòng cho anh vẽ vu vơ.
(...)
Nàng hạ cố đến mất cả nữ tính:
Tình yêu một mất mười ngờ
Khiến cho biển cứ khuất bờ trong nhau
Chị thản nhiên mối tình đầu
Thản nhiên em nhặt bã trầu về têm
(Chồng chị chồng em)
Nàng nghi kỵ, dò xét:
Sao không phải là anh
mà lại là ngọn gió
mà lại là tia nắng
thiêu má em cháy đỏ
... mà lại là người đó
đứng chờ ai ngoài ngõ...
sao không phải là anh?

Nàng khắc khoải nhớ thương da diết trong ước vọng sinh thành:
Đợi bạn từ hoa sữa
Bây giờ thơm hoa cau.
(...)
Nhớ thành cây cho đất
Thương-thành hoa cho đời.
(...)
Nàng chầm vập yêu và oán trách:
Gửi tình yêu vào đất
Được hoa trái đầy cành
Gửi lên trời cao rộng
Sẽ được ngọn sóng xanh

Ta muốn ôm cả đất
Ta muốn ôm cả trời
Mà sao không yêu trọn
Trái tim một con người
(Gửi tình yêu)
Nàng phấp phỏng chờ đợi, nôn nao hy vọng:
Dở dang quá nửa cuộc đời
Bỗng dưng mọc một mặt trời trong nhau.
(...)
Khó khăn tột cùng, nỗ lực vô ích cuối cùng:
Que diêm mảnh cứ châm bờ rạ ướt
Khói lửa nào đắng đót trái tim côi
(Châm khói)
Nàng buông xuôi tay tuyệt vọng:
Đêm dài như xác pháo
Xé tan tuổi đôi mươi
Chưa tiêu gì ra món
Đã hết veo cuộc đời.
(Đêm trắng)
Nàng tự an ủi, xoa dịu vết thương lòng của mình:
Giá được một chén say mà ngủ suốt triệu năm
Khi tỉnh dậy, anh đã chia tay với người con gái ấy
Giá được anh hẹn hò dù phải chờ lâu đến mấy
Em sẽ chờ như thể một tình yêu...
Như lúa đợi sấm tháng ba
Như hạt cải đơm hoa, đợi ngày chia cánh bướm
Như cô Tấm thương chồng từ kiếp trước
Lộn lại kiếp này từ quả thị nhận ra nhau.
(Huyền thoại)
Nàng hướng tới hạnh phúc lứa đôi nhỏ nhoi của riêng mình giữa đời thường:
Cải nở vàng đêm những sao trời
Trăng liềm chúc xuống mãi không rơi
Em không cười nói vu vơ nữa
Áo đẹp song đôi với mọi người
(Một ngày thu)
Hoàn toàn không phải là tình thế, yêu và ghen với Đoàn Thị Lam Luyến có lúc nghiêng về lòng tự ty, có lúc ngang ngạnh đứng ở vị trí tự đại của nhục thể. Ghen tuông trong thơ Lam Luyến là tai vạ của ái tình và là nguyên cớ khởi đầu của những bài thơ thất tình có tầm cỡ trong lịch sử thơ ca Việt .

Yêu và điên, ngọt ngào và cay đắng là nỗi thống khổ dã man đày đọa kiếp người. Nó là thứ trò chơi buồn bã đối với kẻ yếu bóng vía nhưng là thứ rượu mạnh đối với những tâm hồn khỏe khoắn. Lam Luyến có những cơn điên, triền miên điên. Lấy Vân dại làm hình tượng hóa thân, lấy tâm sự nàng Kiều làm niềm an ủi, Đoàn Thị Lam Luyến đã đi đến tận cùng của khổ ải giữa địa ngục của tình yêu. Xiềng xích hôn nhân nặng đến mức cả ba người è cổ ra khiêng. Yêu đương quả là cuộc ký kết hợp đồng với đau khổ. Trong những mối tình tuyệt vọng, có khi kẻ gieo sầu chuốc thảm vô tình như không hay biết gì cả. Các quý bà có một điểm chung phổ biến: không muốn kẻ khác hưởng lợi ở cái mình đã chối bỏ. Đàn bà làm ác dễ hơn làm lành. Thường thì tình bạn đưa đến tình yêu nhưng hiếm khi tình yêu biến thành tình bạn.
Có người thả bóng, buông câu.
Làm cho gãy nốt nhịp cầu quá giang
Đa tình liền với đa đoan
Tơ duyên đã nối lại càng đứt thêm.
(Không đề)

Giữa cơn khủng hoảng tình yêu, trong cảnh ông ăn chả bà ăn nem, Eva ăn thì Adam cũng nếm, phụ nữ phải luôn luôn là một nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ tồi nàng sẽ bại trận. Thượng đế tạo ra phụ nữ là để được yêu chứ không phải là cái bồ để đàn ông thải rác tình.
Đức hạnh thì nông nổi, cái giận thì không đáy, lòng dạ nàng cũng chóng thay da lột xác. Lam Luyến đã rên xiết, đã lỗi lầm đôi phen, đã ngất ngây tận hưởng những phút giây hoan lạc do tình yêu đem đến. “Khi yêu nhau hai ta như là một - Ta với mình đâu dễ xẻ làm đôi”. Căn bản nàng đã được yêu! Và thế là đã đủ mãn nguyện cho thi nhân khi phải làm người ở giữa thế gian cằn cỗi này! Nàng thẳng thừng tuyên bố:
Thì cứ say, cho xa đừng phải nhớ
Thì cứ điên, cho đổ vỡ đừng buồn
Vân cứ dại thêm một nghìn năm nữa
Cho ngày mai đôi lứa dịu dàng hơn
Điên để trắng và đen không đảo ngược
Điên để tình và hận mãi song đôi.
(Vân dại)
Người đàn ông có thể ngồi xổm trên dư luận, nhưng người đàn bà phải chiều theo dư luận. Khóc lóc buồn bực, hờn dỗi khi nghĩ tới sự bất hạnh đã qua, Lam Luyến sẵn sàng phơi gan ruột ra ngoài để phản bác và chiêu tuyết cho mình:
Em như vạt cháy rừng quanh năm đòi cứu hỏa
Như con lũ sông Hồng chỉ chực vỡ đê
Nếu hạnh phúc không thể là vĩnh viễn
Điên cũng cần cho xứng với đam mê.
(Gọi Thúy Kiều)
Luôn hướng khát vọng về một thế giới hoàn mỹ, Đoàn Thị Lam Luyến đã khước từ mọi cái xấu, cái tầm thường, vươn lên luyện cho trái tim cứng cáp và nhạy cảm phô bày tất cả cái tốt đẹp lẫn cái phù phiếm. Lam Luyến yêu ghét không bao giờ lừng chừng, mạnh bạo, cả quyết đến liều lĩnh bản năng. Với nàng, chưa yêu là chưa sống. “Con tim em hạn hán - Tình anh là mưa bay”. Cứ thế, Lam Luyến lặng lẽ nhả hương trong bóng tối đời mình. Chính Lam Luyến đã tự diễu:
Làng thơ có chị Đoàn Lam
Tình dọc thì ít, tình ngang thì nhiều
Mới gặp cứ tưởng dễ yêu
Xem trong âu yếm có chiều chông gai...

Đàn bà như Lam Luyến quả thông minh hơn đàn ông, ít ra là nàng cũng đã biết dùng trí của mình mê hoặc để đàn ông không nhận ra điều đó. Ở đời, “gái dở một dành, gái lành một sọt” (Tục ngữ Việt ). Thiên hạ có quyền nghi ngờ đàn bà kể cả những người đàn bà hoàn hảo, đức hạnh. Mặc, họ có thể phán xét xem đàn bà tự do không phải là đàn bà. Từ một thiếu nữ vàng, biến thành một thiếu nữ phụ chì, Đoàn Thị Lam Luyến cảm rồi yêu, đau khổ rồi hy sinh, lại nhoai người lên phấn đấu, khẳng định... “Em muốn hồng nhan không bạc phận”. Đó là những đề tài bất tận mà Lam Luyến đã dệt nên những trang đời, trang thơ đặc sắc của một kỳ nữ không gặp may trên đường tình ái, cái mà Nguyễn Ngọc Oánh bảo là “Cầu duyên bắc vụng cho tình trượt chân” là thế. Trong hào quang của tình yêu cay đắng, Lam Luyến mới bộc lộ hết được toàn vẹn vẻ đẹp chân thật từ trái tim nổi dậy đầy bản lĩnh của mình. Sự nổi loạn cá tính là điều chủ yếu cho sự hình thành và tồn tại của một cây bút.
(Rút trong bộ THI NHÂN VIỆT HIỆN ĐẠI)
T.D.H
(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

KHI NHÀ KHOA HỌC HÀNH HƯƠNG LÊN CÕI THIỀN YÊN TỬ

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Thứ Bảy, 20 tháng 3, 2010 0 nhận xét



THÁI DOÃN HIỂU

Nhà khoa học Hoàng Quang Thuận sinh ngày 5-5-1953 tại huyện Tuyên Hoá, Quảng Bình. Nhà thơ đã từng học Đại học Sư phạm Vinh, khoa Vật lý, từng gia nhập quân đội trong chiến tranh chống Mỹ, cứu nước. Là tiến sĩ Vật lý, hiện nay Hoàng Quang Thuận đảm nhận chức vụ Viện Trưởng Viện Công Nghệ Viễn Thông - Viện khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Tác phẩm đã xuất bản: Thi Vân Yên Tử, Nhà xuất bản hội nhà văn 1998; Ngoạ Vân Yên Tử, Hội nhà văn 2001. Hai tập thơ được in và tái bản bốn lần bằng tiếng Việt và tam ngữ Việt – Pháp – Anh, tổng cộng có 15.000 bản đã được phát hành.

*
Ngày 26 –11 – 1997, có một đoàn phật tử Miền Nam 20 người do Ni sư Huệ Giác làm trưởng đoàn, từ Thành Phố Hồ Chí Minh lặn lội ra tận Uông Bí, Quãng Ninh thăm Phật Tích Yên Tử - nơi từ thời Trần là trung tâm tu hành của Phật Giáo, lần đầu tiên xuất hiện một dòng thiền thuần Việt mà ngôi giáo chủ là người Việt Nam.

Yên tử có đỉnh cao nhất vùng Đông Bắc nước ta là ngọn Yên Sơn 1.068 mét với thế thần rồng lượn ngầm ra Biển Đông, đầu Rồng quay lại hướng Thăng Long. Tại nơi này năm 1299 Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông (1258 – 1308) sau khi lãnh đạo đoàn quân đánh tan quân Nguyên – Mông, đất nước trở lại thái bình, đã từ bỏ cung điện vàng ngọc trèo lên non xanh nước biếc tu hành, trở thành Tổ thứ nhất tông phái Trúc Lâm “Được làm Vua chăn dân muôn họ - Được làm Phật cứu độ muôn loài”. Có lẽ, đó là lý do chính thôi thúc Ông Viện trưởng Viện Công nghệ Viễn thông Trung tâm Khoa học Tự nhiên và Công nghệ quốc gia Hoàng Quang Thuận nhập đoàn hành hương về Yên Tử để chiêm quang cảnh “Vua Trần đã biến thành vua Phật” ra sao, để suy ngẫm “Từ cái nhất của cái hữu danh” tìm đến “cái vĩnh hằng” ở nơi “Yên Tử trường xuân”.

Đi hành hương thắng tích Phật trở về mà gặt hái được cả một tập thơ dày dặn 63 bài với 9 phụ bản màu rất đẹp, quả là chuyện hiếm lạ, ít có nhà thơ chuyên nghiệp nào làm được. Tập thơ Thi Vân Yên Tử được in hai năm tiếp, sau những lần hành hương lên cõi thiền Yên Tử, Hoàng Quang Thuận lại viết tiếp 80 bài nữa, tập Ngoạ Vân Yên Tử ra đời. Hoàng Quang Thuận tâm sự với tôi là ở tập đầu Thi Vân Yên Tử, anh đã viết liền ba đêm một mạch trong trạng thái tham thiền nhập định: đêm thứ nhất làm được 14 bài, đêm thứ hai làm được 31 bài. Về lại Sài Gòn, mười ngày sau khi vãn cảnh chùa Bồng Lai (Bài Rịa) làm thêm được 18 bài. “Thơ cứ tuôn như suối chảy tôi chỉ việc chép lại, thế mà trước đây để làm được một câu thớ cứ phải đánh vật với nó”.

Đến với Yên Tử Hoàng Quang Thuận không nhận xét, đánh giá cuộc thăm thú theo cách nhà khoa học, trái tim anh thủ thỉ cất lời. Cảm hứng thi ca của anh như từ chốn cao sâu huyền bí rót xuống. 143 bài thơ là 143 bức tâm cảnh. 143 bài duy nhất một đề tài, nhất quán một bút pháp và duy nhất một thể thơ. Cảnh và tình hoà quyện vào nhau trong thể nhật ký lữ hành viết bằng ngôn ngữ thơ ca khá nhuần nhị.

Bước chân lên Yên Tử “ bồng lai nơi trần thế” với pho Phật tích kỳ vĩ 700 năm Hoàng Quang Thuận như Lưu Nguyễn nhập thiên thai, đến đâu cũng là cảnh cũ người xưa, lạ mà quen, quen mà lạ, dường như kiếp trước anh đã từng tu hành ở nơi đây (?!) “Yên Tử thầy ơi! Con tới đây – Mênh mông mây núi bóng sư thầy – Trăm năm duyên kiếp còn lưu lại – Lối cũ đường xưa nhập cỏ cây” (Vân du Yên Tử). Lần theo bước anh, ta vạch cây rẽ lối leo lên núi trong tiếng “Chim trời líu lót với hương trời”; “Sóng núi chạy dài đầy thông phủ - Làng Mụ làng Nương trắng cánh cò” (Chùa Cầm Thực); Ta tần ngần đi trên con đường gập ghềnh “Hoa dại trắng dài mỗi bước đi”; “Cổ thụ vương cao xòe tán rộng - Rừng già nắng lọt đốm hoa rơi”; ta ngại ngùng thích thú trước ngổn ngang “đá xếp thiền đồ trận”; ta thu vào hồn cảnh sắc “Hoa bưởi trước chùa đơm trắng xoá - Bạch vân triền núi một nhành mai”; ta đi trong “Trúc ngã vai gầy mây khóm lau”; ta đi trong ngày, ta đi trong đêm “Sương đêm sực nức mùi hoa đại - Mỗi bước trăng trôi giữa núi rừng”; ta ngắm cảnh non thiêng chập chùng, núi biếc mông lung, đại ngàn bí hiểm, thác reo, mây trắng ngủ trong mây, chim gù cảnh tiêu dao; ta săm soi “vết đá mòn chân lễ hội”, ngắm giọt sữa nhỏ ra từ vú đá; ta cúi đầu chiêm bái trước lăng Quy Đức mà cảm cái đức làm người để “cứu đời” của Điều Ngự Giác Hoàng; ta lặng người nơi Trạng nguyên Huyền Quang Tôn giả “Khuya sớm sáng chong đèn bát nhã – Hôm mai rửa sạch nước ha ma”; ta tròn xoe mắt trước cảnh “gốc đa ôm gốc thị”, kinh dị trước cảnh tượng “hổ nghe kinh”, “mấy ông rắn lớn … náu mình tượng Phật ngắm giang sơn”; ta đứng bên bờ sông Hương Hải sửng sốt “Mây vàng ngũ sắc chưa tan hết – Bát nhã tâm kinh tán pháp hoa”; ta cảm cái ơn sâu cứu nhân cứu nhân độ thế của các sư “Yên Tử cao non thành y viện - Cứu khổ chúng sinh khắp mọi miền”; ta cười diễu “uổng công tu luyện” trước khí thiêng Yên Tử hoá đá cả đạo sĩ người Tàu An Kỳ Sinh; ta xao xuyến trước hư ảnh “Đại già phủ phục trước sân chùa”, “Am đá ghép mây gài ngũ sắc”; ta thán phục thiên nhiên diệu kỳ “Bụi trần không bợn hoa đua nở”; ta đứng trên đỉnh non Yên, xưa vốn là đáy biển tò mò trước đoá trà mi, sú, vẹt, ốc, sên, cá voi, ếch ộp, thờn bơn dẹt trong đá - viện bảo tàng hải dương học sống động - mường tượng “sóng biển gầm vang giữa lưng trời”; ta lắng nghe tiếng chuông chùa Hoa Yên mà giật mình “tỉnh giấc mê hồn tục”; ta ngắm lòng hồ đầy ắp trăng rằm để tấy sạch bụi trần, bàng hoàng trước khoảng lặng bao la “Một giải rừng thiêng giữa núi rừng – Cõi trấn xa lánh vòng tục lụy” mà phân vân huyễn hoặc tự hỏi như tác giả “Thật phải trần gian hay cảnh tiên?”…

Trong Thi Vân Yên Tử và Ngoạ Vân Yên Tử Hoàng Quang Thuận có những câu thơ trẻ trung: “Mận chín trĩu cành lúc lĩu quả - Trứng gà chiu chít cả trong mây” (Chùa Cầm Thực), “Đôi bồng đảo bập bềnh trên sóng - Cả rừng thông xao động mặt hồ” (Hồ Yên Trung). Câu thơ gợi tâm trạng “Lăn tăn sóng gợn làn thu thủy - Tiếng gà xao xác cả tầng mây” (Hồ thu Yên Trung). Thật gây ấn tượng khi anh tả nơi Phật tắm “Từng mây hoa nước cứ tuôn đầy” giống nhu một nghệ sĩ nhiếp ảnh, thắng tích được Hoàng Quang Thuận nhìn dưới nhiều góc độ nên cảnh sắc biến ảo. Hồn nhập thiền niên cảnh chấm phá rất hoạt “Mây trôi lơ lửng triền Yên Tử - Tùng xanh lãng đãng bóng trong sương” (Chùa Tiêu Vân) chủ thể được truyền tâm nên anh thẩm lắng được âm “Ngân nga chuông vọng chiều xa vắng – Cung nữ ngàn xưa tiếng thở than” (Chùa Giài Oan).

Thiên nhiên cứ lồng lộng hây hây thoắt biến thoắt hiện chờn vờn trước cặp mắt đắm đuối của thi nhân. Đạo pháp của tác giả đã hoà trong tình yêu sông núi, dắt người đọc giũ bỏ bụi trần đến với non bồng nước nhược một cách thực tâm thành ý. Yên tử quả là một bức tranh thuỷ mặc hoành tráng, thơ mộng, đầy huyền bí…

Khác với Thi Vân Yên Tử tập thơ Ngoạ Vân Yên Tử nghiêng về thiền định. Hoàng Quang Thuận đào sâu lai lịch từng gốc cây, khóm hoa, giống chi, ngôi chùa, mỏm núi, khe suối. Thiên nhiên đã hoà hợp, giao đãi tinh tế với hồn người thi sĩ. Hoàng Quang Thuận còn sùng bái các vị vua Trần, hoàng hậu, công chúa, các đệ tử và người thân của các Tam tổ Trúc Lâm…suốt trong chiều dài bảy trăm năm đã đến với Yên Tử tu hành, giác ngộ thành chánh quả. Nhà thơ lần giở từng trang lý lịch nhà chùa, đọc kỹ tiểu sử trên các bài vị bàn thờ, tìm hiểu hành trạng của từng vị chân tu. Nơi đây, công chúa Huyền Trân đã từ Chiêm Thành về nước thăm quê nhà, trèo lên Yên Tử vấn an vua cha “Nước mắt thành mây trắng”. Nỗi niềm của công chúa đã thành huyền thoại “Vì cha vì nước mà li biệt - để lại cho đời một ánh sao”. Công tử Trịnh Sài con trai Thái Bảo công, sinh 3-1-1606 “Xa rồi điện ngọc vương Trần phủ - Khói bụi thời gian đã lấp đầy” (Du xuân). Ngài được miên viễn ở chùa Hoa Yên. Ni sư Diệu Tín tên thật là Trần Thị Ngọc Lan quê ở xã Trần Xá, phủ Lý Nhân, dòng dõi nhà Trần, cung phi của chúa Trịnh, “vinh hoa phú quú thời xa lánh” người đã hoá thân bồ tát dưới Phật đài. Sư bà Diệu Đăng tên thật là Phạm Thị Khoa, một cung phi trong phủ chúa Trịnh cũng cắt bỏ “ lợi danh cùng thế tục” đến lo phần kinh kệ ở cửa thiền. Ni sư Diệu Pháp (Nguyễn Thị Ngọc Lạp) sinh ngày 17-7-1597, quê xã Phú Lộc phủ Quốc Oai “Khuôn mặt rạng ngời vầng nhật nguyệt – Áng mây tụ hội tiếng thanh tao”. Sư tổ Chân Nguyên (1647-1762) họ Nguyễn tên Nghiêm quê ở xã Tiền Liệt, huyện Thanh Hà, Hải Dương có “sức kéo núi vần mây” ngài trụ trì ở Long Động, từ bi đến mức “Rắn xanh từng cặp nhắm mắt thiền – Nghe mõ chim rừng im tiếng hót”. Thiền sư Minh Hành (1596 – 1659), từ tỉnh Giang Tây, Trung Quốc lặn lội tìm đến Yên Tử “nhân duyên kiếp trước” nơi có nhiều linh khí, tu hành đắc đạo, viên tịch tại đây ngày 25-3-1659. Hoàng Quang Thuận viết về vị tổ thứ ba Huyền Quang từng chán với nhân tình ấm lạnh “Khi chưa đỗ Trạng chẳng ai gần – Khi thời đỗ Trạng người đua đến”. Ngài đã đến với mây ngàn gió núi bằng “Sáo trúc dặt dìu buông tiếng ngọc” trong những đêm thanh vắng “Sắc thắm hương đưa đoá cúc vàng…Bên hè gió lạnh chùm sao rụng”. Huyền Quang có vài chục năm làm quan, ba mươi năm tu hành, 4 năm làm giáo chủ, viên tịch 23-1-1334. Hoàng Quang Thuận đến tận nơi chiêm quan những kinh sách vua Trần Nhân Tông soạn thảo có các bộ Thạch Thất, Huyền Đăng, Thiền Tâm Thiết…Hoàng Quang Thuận dõi theo từng bước chân vị vua kính mến Trần Nhân Tông: Ngài khoác áo cà sa xuống núi, nước non ngàn dặm bang giao Chiêm Thành. Ngài về thăm lại Kinh Sư thăm chị công chúa Thụy Thiên lần cuối và “Lặng ngắm hoàng cung trong chiều tím”. Đẹp nhất là hình ảnh ngài vào Yên Tử:

Vua đi hài cỏ vào Yên Tử
Ráng chiều đỏ rực cả hoàng hôn

Trần Nhân Tông – Nhà thơ lớn nhất, vị giáo chủ quyền uy nhất thờI Trần ấy luôn khoác áo tiên ông vớI phong thái ung dung đạo cốt:

Sớm cưỡi mây chơi cùng non biếc
Đêm về bến nghỉ lót trăng nằm
Tiếng sáo thiền ca vui bất tận
Ngập tràn Yên Tử trăng trong trăng
(Am xưa)

Các sự tích địa tầng văn hoá của Yên Tử đan xen với non nước cẩm tú đã khơi nguồn cho cảm hứng bút lực Hoàng Quang Thuận sáng tạo bền bỉ.

Tịnh lặng và nghĩ suy, Hoàng Quang Thuận đã nhìn thẳng vào bản tính hiện sinh của mình, mượn trời mây, non nước, chim muông, cỏ hoa, hổ, rắn, khỉ, vẹt, chồn, cổ miếu, mộ tổ, đại già, đường tùng, suối Giải Oan, các cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại…để tuyết pháp về lẽ nhân sinh, sự tụ tán kiếp ngườI mà ngộ ra lẽ huyền vi của đạo pháp. Nhà khoa học ngành viễn thông Hoàng Quang Thuận thừa biết trong núi làm gì có Phật. Nếu tâm thành thì trí xuất, đó mới chính là Phật, khỏi phải cực khổ tìm kiếm bên ngoài đâu xa. “Nếu biết được tự tâm mình như thật tức là Bồ Đề rồi đó” (Kinh Đại Nhật)
*

Với Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử, ông Nghè Thuận là người thích thiền, các bài thơ đều có ẩn chứa chút thiền, quả đúng như nhận định tinh tường của nhà thơ Ngô Văn Phú – Tổng biên tập, Giám đốc Nhà xuất bản Hội Nhà Văn: “Một nhà khoa học không phải là nhà thơ chuyên nghiệp mà khi đối cảnh sinh tình, hơi thở của thiền học đã nhuần thấm vào cảnh sinh tình, hơi thở của thiền học đã nhuần thấm vào cảm hứng trinh nguyên trước một danh thắng nổi tiếng hàng mấy trăm năm”(1).Và tựa Ngoạ Vân Yên Tử”, ông còn nhận xét “Cái gốc của Thiền học Trúc Lâm chính là trọng dân, tôn hiền đãi sĩ. Như thế là anh đã hiểu Trúc Lâm Thiền phái khá tường tận. Cái gốc của Phật Nho thời Trần ấy, là gặp nhau ở chữ Tâm…Hoàng Quang Thuận cũng có trong mình chữ Tâm ấy”.

Dùng tâm quy tụ được nhân tâm
Hưng thịnh triều Trần được lòng dân
Trong người nhân hiếu, tôn hiền sĩ
Đạo Phật thịnh hưng nhất triều Trần
(Lòng dân)
Nhà Trần đã chủ trương một nền chính trị thân dân, nhân chính, đức trị. Bởi thế, sự phù hợp giữa đạo và đời đã làm cho Đạo Phật hưng thịnh thành quốc giáo, chùa chiền mọc lên khắp nơi. Yên Tử trở thành thủ đô tư tưởng của Phật giáo Đại Việt là vì vậy.

Với Thi Vân Yên Tử và Ngoạ Vân Yên Tử, chúng tôi đọc kỹ tới mấy lần. Cái mê lực hút người của nó không phải là thi pháp cao thủ gì đâu, mà là điều làm cho tôi cùng một số bạn đọc, kể cả Đại tướng Võ Nguyên Giáp “đọc một mạch mấy bài liền, thấy hay và cảm thấy như mình cũng đang đi thăm ngắm cảnh nơi núi mây độc đáo này. Đọc những bài thơ hay đượm gió ngàn cao, thấm nguồn suối - những bài thơ của một con người đầy tư tưởng nhân văn” (2) đó chính là cái tâm đức, tâm thành, tâm nguyện của Hoàng Quang Thuận được Phật độ phổ vào trong những vần thơ bề ngoài có vẻ xưa cũ phiêu diêu hồn vía giọng thơ Nôm Nguyễn Trãi (3), nhưng bên trong hàm chứa một nội dung mới.

Tôi thích các bài: Chùa một mái, Thác vàng, Hổ thiêng, Tháp cổ, Dốc đá chùa đồng, Hồ Yên Trung, đặc biệt chất thơ có Hoa dại, bàng bạc chất Đường Tống có Thiền sư Đạo Viên.

Đồi thông am nhỏ dựng Thanh Phong
Tiếng mõ kinh chiều giữa hư không
U tịch chiều xưa niềm hoan lạc
Trăng vờn gió đập cửa chùa thông.
(Thiền sư Đạo Viên)

Những bài đó có thể sánh vớI bút lực của những tay thơ lão luyện.

Tác giả Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử có một nghĩaa cử cao cả là thành kính đem phần lớn tập thơ in rất đẹp và sang trọng đợt đầu, và sau này nhiều lần tái bản đều có cúng dường lên Yên Tử. Hoàng Quang Thuận còn vận động tiền của góp phần trùng tu, sữa chữa các di tích – nơi đất lành linh hiển đã có duyên ngầm tặng anh cả một nguồn thi tử!

Có một chuyện rất lạ nữa tôi không thể không thông tin với bạn đọc là giáo sư Hoàng Hữu Đán mặc dù tuổi cao, cũng như bị ai ám hào hứng bỏ ra hai tháng ròng say mê ngồI dịch thơ Thi Vân Yên Tử ra tiếng Pháp. Ông nói: “Tôi ăn Tết năm hổ bằng Thi Vân Yên Tử”. Một bạn đọc ở hải ngoại tên là T.D Nguyen Pho, cảm vì cái nhiệm màu của đức Phật từ Hoàng Quang Thuận cũng đem hết tâm sức dịch ra tiếng Anh. Bản in tam ngữ Vịêt – Pháp – Anh của tập thơ chắc sẽ thoả mãn được nhu cầu tìm hiểu văn hoá Việt Nam cho bạn bè bốn phương. Trong nước, số đông bạn đọc phần lớn là các Phật tử và người cao tuổi hoan nghênh tập thơ khá nồng nhiệt: “Tôi tưởng theo anh thăm Yên Tử - Nào ngờ lạc bước chốn thi vân – Hoàng Quang cửa Phật soi câu chữ - Thuận dòng rửa sạch chốn bụi trần” (Phạm Khắc Lãm – Nguyên tổng giám đốc Đài truyền hình Việt Nam). “Thi Vân Yên Tử bừng soi sáng - mở rộng hồn tôi với đất trời” (Trung Nghĩa – 82 tuổI). “Hơn bảy trăm năm, gương chiếu diệu – Hai đường quan niệm hoà hợp nhau” (Nguyễn Phú). “Mấy ai hiểu được thiên cơ ấy – Khoa học, tâm linh toả sáng ngời…Mừng anh thẳng tiến bước vân du - Đột phá không gian giữa mịt mù” (Trần Hiệp). “Mơ màng giấc điệp thần linh ứng - Cổ tích bao đời được thuyết minh -…Hồn thiêng Nguyễn Trãi hay vua Phật - Mượng bút đề thơ gửI thế gian” (Như Thạch).” Đường về khoa học xa là mấy - Nẻo đến văn chương cách mấy nhiêu -Thế hệ hai chiều chung lối chảy – Trăng khuya lưu luyến bóng nghiêng chiều” (Duy Huân)…Giới báo chí, các nhà nghiên cứu phê bình văn học có cảm tình sâu, quảng bá “Không có một tấm lòng yêu mến với quảng Ninh, không có nguồn tình cảm dồi dào trước các sự tích ở Yên Tử, không có các tầng văn hoá đan xen nhau trong nội lực của ngọn bút do chính Yên Tử khơi nguồn, không thể biến một nhà khoa học thành một nhà thơ với tâm hồn trong trẻo và có sức viết bền bỉ như vậy được. (Báo Hạ Long số 205,10+11-2003). …”Yên Tử lại có thêm đôi cánh để bay đến những người xa tổ quốc” ( Báo Hạ Long số 214 ngày 20-2-2004). “Thi Vân Yên Tử không phải là tập thơ Đạo nhưng trong ý thiền chan hoà trong những ần thơ như hương sen thoang thoảng mặt hồ. Đọc và cảm nhận Thi Vân Yên Tử, ta bắt gặp ánh hồn Đạo pháp của anh Hoàng Quang Thuận trong ý tưởng bao dung, hoà hợp của tình yêu thiên nhiên đất nước, khao khát tìm về cội nguồn dân tộc, của bản thể chân như chính mình” (Một hồn thơ lung linh ánh đạo - Đỗ Thị Hồng Cúc - Tạp chí Việt Nam và Đông Nam Á ngày nay số 4-2001). “Với những câu thơ đượm ý vị thiêng liêng, tuy cổ mà rất kim, hiện lên bức tranh toàn bích của một vùng danh lam thắng cảnh” (Xuất bản tập thơ song ngữ Việt Pháp - Kiều Vân – Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 10-6-1998). “Yên Tử, nơi con người hợp nhất với thiên nhiên và dường như tự giác ngộ cái biết tối cao của Thích Ca Mâu Ni Phật khi đắc đạo dưới cây bồ đề. Mỗi bài thơ của Hoàng Quang Thuận không chỉ là những hoạ cảnh mà ẩn sâu trong các lớp chữ nghĩa là cái tâm của người viết,…Là nhà khoa học đã có nhiều công trình, là nhà quản lý công việc bề bộn, nhưng với Thi Vân Yên Tử Hoàng Quang Thuận đã hé mở một góc con người hoàn toàn khác và rất đáng trân trọng của anh” (Diệu Hương). Vẻ đẹp của Yên Tử trong những huyền thoại, cổ tích và phong cảnh đã tạo thành một không gian cảm xúc thơ của Hoàng Quang Thuận. Dường như tác giả muốn giữ mãi những kỷ niệm và khám phá lý thú của mình về Yên Tử bằng vần thơ chân thành, tha thiết ấy. (Minh Phương – Báo Nhân Dân số ra ngày 20-1-2000). “Giữa thời buổi thơ in ra nhan nhản, chủ yếu xoay quanh đề tài tình yêu hoặc co vào suy tưởng chiêm nghiệm cá nhân, đôi khi rối mù tắc tị…thì Thi Vân Yên Tử và Ngọa Vân Yên Tử như một ánh mây lành,thoát tục, trong trẻo đến lạ lùng dắt ngừơi đọc vào chốn Bồng Lai rũ bỏ bụi trần trở vể với bản ngã thiện tâm trong mỗi con người…Đọc hơn trăm bài thơ, tôi càng nghiệm ra đúng là tác giả không cố tình làm thơ. Cảm hứng thi ca như một dòng chảy không cùng, huyền bí nhiễm vào anh, theo chân anh vẽ nên bức tranh khai mở từ ngày đầu đức Hoàng đế Trần Nhân Tông, bỏ ngai vàng về Yên Tử tu hành…Nhiều câu thơ, bài thơ khiến người đọc cảm thấy say lòng, tâm hồn thơ thới, muốn rũ bỏ vướng bận trần tục để sống tốt đẹp hơn. Như vậy còn gì hữu ích , còn gì hãnh phúc hơn khi nhà thơ đem lại cho cuộc đời” (Nguyễn Trọng Tân - Tạp chí Nhà Văn, Hội Nhà Văn Việt Nam 9-2002)…Ngoài nước, chánh văn phòng phủ Tổng thống nước Cộng hoà Pháp Lheritier thay mặt ngày Tổng thống Jacques Chirac phúc đáp tác giả “Xin ông hãy tin rằng ngài Tổng thống đã xem và thưởng thức những bài thơ hay và rất cảm xúc đó” (Thư Pari 20-8-1998). Bộ trưởng văn hoá và Thông Tin Pháp Traumanm “Những bài thơ rất hay được viết từ cảm hứng ở vùng Yên Tử đã làm tôi say đắm…Tập thơ ấy là bằng chứng mối quan hệ trao đổi văn hoá giữa hai nước chúng ta: (Thư Pari ngày 20-8-1998). Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã đọc tập thơ và gửi thư tay trân trọng cảm ơn tác giả. Thư ký hoàng cung Thụy Điển Kung L. Hovstaterna “Chúng tôi đánh giá cao sự cao siêu sâu sắc về những vần thơ của ông” (Thư Stockholm ngày 3-3-2000)…

Tuy thế, Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử chưa phải là hai tập thơ toàn bích, còn một số sỏi sạn, lỗi thơ, tả nhiều hơn ngẫm, đơn điệu chưa có cao trào thơ, trùng lắp, chữ nghĩa quê quê ít chắt lọc, tinh luyện. Có thể dồn 143 bài đúc thành khoảng dăm chục bài có lẽ tốt hơn chăng? Tập thể những người in 2 tập thơ cho rắng Thi Vân Yên Tử, Ngoạ Vân Yên Tử là tập thơ thần Phật ban cho bằng cách ứng vào Hoàng Quang Thuận nên chủ trương không sửa chữa bất cứ chữ nào, in đúng nguyên bản thảo. Là người được tác giả tin cậy phó thác cho đọc khi nó hãy còn khởi thảo, tôi nghĩ ngược lại, thần Phật nếu có bàn tay gia cố chăm sóc của con người sẽ tốt hơn. Con người là đấng tối linh của muôn loài như Khổng Phu Tử bảo cơ mà. Ví như bài số 51 Hoa dại (trang 59) tập Thi Vân Yên Tử, chỉ cần ta thêm bớt, đảo vài ba chữ thi tứ sẽ lung linh lên ngay, bài thơ rất đáng được lưu danh:

Xuân hạ hai kỳ đại trổ hoa (4)
Từng chùm sương thắp lạnh trăng ngà
Trắng ửng sân chùa hương rụng ngát
Gót vàng ai giẫm lên hồn hoa (5).

*

Đọc thơ Hoàng Quang Thuận, thế là ta đã được đến thăm đại kỳ quan Yên Tử, nơi “tạo hoá bày tuyệt tác thiên nhiên”. Hãy để cho lòng mình thanh thản lắng lại với nơi này. Thế có nghĩa là Hoàng Quang Thuận khuyên ta nên đi tu tiên chăng? Vâng, có thể! Anhxtanh chẳng đã từng viết: “Trong thời đại duy vật của chúng ta, những nhà khoa học chân chính lại là những người có tín ngưỡng sâu sắc” đó ư? Nhưng, muốn tu đạo tiên, trước phải tu đạo người. Đạo người tu không hay, đạo tiên sẽ xa vời. Sống trong cõi trần mà không vướng bụi trần là con đường đi của người học thiền chân thật. Thời gian tiến lên phía trước, chẳng lẽ người học thiền tụt lại đằng sau? Vinh nhục chớ mảy may động tâm. Tín ngưỡng, chí hướng của mỗi người ở trong tim chứ không phải lê la trên đầu gối.
Hành hương về xứ Phật là dịp được trở lại, đánh thức Phật tánh nằm ngủ yên trong mình. Hoà vào giữa hàng triệu du khách thập phương hàng năm lên xứ Phật, có ngày đông đến hai vạn người, Yên Tử đã thành một cõi đi về, một góc tâm linh riêng của Hoàng Quang Thuận. Từ xưa đến nay, anh là tác giả viết phong phú nhất về Yên Tử. Nắm chắc quyền lực cái đẹp của bản thể, Hoàng Quang Thuận dùng nội lực thi ca khai mở chuyển tải tới người đọc những thông điệp ý tưởng muốn giúp đời tìm giải pháp chữ tâm. Hoàng Quang Thuận đã nuôi được ngọn lửa từ bi hỉ xả trong lòng các bạn đọc Phật tử. Hàng vạn bản in thơ tái bản liên tục cùng buổi sư Thuận “thuyết pháp” vế Thi Vân Yên Tử và Ngọa Vân Yên Tử trước hàng vạn du khách với những tràng vỗ tay vang dội núi rừng Yên Tử là những bằng chứng về sức thuyết phục của nó. Ai thoát khỏi những dục vọng tầm thường để đi vào cõi tịch diệt thì cò thể bàn tới chuyện tịch diệt được. Phật pháp dạy rằng “Tự giác nhi tha giác” (Con người không chỉ giác ngộ cho mình mà còn có trách nhiệm giác ngộ người khác). Đó cũng là cách tìm về cội nguồn dân tộc.

Đời giống mây trôi trên đỉnh núi
Phù vân tán tụ một kiếp người
Vinh hoa phú quý vòng tục luỵ
Bể khổ trấn gian kẻ đầy vơi

Tìm đến Yên Sơn tẩy bụi trần
Hào quang toả sáng đỉnh Phù Vân
Ngoạ Yên Tử theo ngày tháng
Linh sơn đất Phật mãi trường xuân.
(Luận đời)

Thưởng ngoạn Thi Vân Yên Tử và Ngoạ Vân Yên Tử cũng là cách đắm mình giữa hoa cỏ, trời mây, non nước kỳ thú, gột bỏ những tục lụy đời thường, vượt lên tấng thượng thanh khí, là cách gạn đục khơi trong, tu tâm dưỡng tính hướng về cõi thiện. Âu đó cũng là cách học thiền hay vậy.

Viết tại Chợ Lớn, 2-3-1998
- Hương Viên Các, 11-4-2005

(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI sắp xuất bản)


THÁI DOÃN HIỂU

( Xin mời quý vị tham khảo thêm tập thơ Thi Vân Yên Tử (nhấp chuột lên tên tập thơ để xem)


(1) Những câu thơ Yên Tử - Ngô Văn Phú – Thay lời tựa Tập Thi Vân Yên Tử, tập thơ của Hoàng QuangThuận , Nxb HộI Nhà Văn, 3-1998.
(2) Thư của Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi tác giả Hoàng Quang Tuận ngày 19-2-1998 và Tết năm 2004
(3) Một giai ngẫu: 63 bài thơ của tập ứng với 63 tuổi đời của Nguyễn Trãi (1380 –1442)
(4) Ba gốc đại cổ trước chùa Hoa Yên, núi Yên Tử, theo các nhà khoa học xác định có tuổi 700 năm.
(5) Không thuyết phục nổi vua Trần Nhân Tông trở lại triều khi Người lên Yên Tử tu hành, một số cung nữ trầm mình dưới suối Giải Oan. Người ta vẫn thường thấy phảng phất gót vàng các oan hồn trinh nữ ấy.



THÁI DOÃN HIỂU

Nhà thơ Võ Văn Trực thuộc loại tài thì vừa phải nhưng tình thì rất lớn. Chính cái chân tình đó đã giúp anh bù đắp được vào năng lực còn hạn chế và mong manh của mình, vươn lên đạt được những thành tựu mới đóng góp cho kho tàng thi ca hiện đại của dân tộc 4 bài thơ xuất sắc: “Chị, Vĩnh viễn từ nay, Thu về một nửa và Nghĩa địa làng, người ta sẽ còn đọc mãi.

Thơ ca viết về người mẹ có rất nhiều nhưng xưa nay chỉ có bài Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của nhà thơ Nguyễn Duy là hay hơn cả. Danh tác thứ hai về đề tài này là bài Vĩnh viễn từ nay của anh Võ. Chúng tôi xin nói kỹ về bài thơ Vĩnh viễn từ nay của anh.

Các bậc sinh thành, ai cũng thấm hiểu điều này: người nào thiếu con cái là thiếu ánh sáng trong nhà. Thành thử chúng ta là của cải quý nhất, là công trình lớn nhất đời được chăm bẵm xây đắp rất công phu của các bà mẹ. Trong việc nuôi dạy con cái quả là báu vật đang nằm gọn trong tay các mẹ. Becsna Sô bảo rằng: “Vũ trụ có nhiều kỳ quan, nhưng kỳ quan tuyệt phẩm nhất là trái tim người mẹ”. Vâng, ai chẳng có mẹ? Ngay cả Thượng đế cũng còn có mẹ mà! Này là dòng sữa ngọt ngào từ bầu vú mẹ, bát cơm thơm dẻo từ tay mẹ nấu đơm, này là làn gió mát lành từ chiếc quạt mo mẹ quạt. Mẹ lật đật chạy đến đỡ ta khi ta vấp ngã, hôn lên vết trầy xước để rịt chỗ đau. Người kể những chuyện cổ tích thần kỳ, người dịu dàng hát ru đưa giấc ngủ của ta vào đêm mơ.
Lời mẹ hát phả vào con ấm nóng
Lẫn với mùi rơm rạ của đồng quê
Câu ca dao hoà lẫn với câu vè
Như ngọn suối chảy tràn trong tâm tưởng
Của thơ con suốt mấy chục năm trời.

Nơi trú ngụ và ẩn nấp vững chắc nhất là lòng mẹ. Thật là cơm nặng áo dày. Mẹ là tất cả quê hương.
Anh Võ hiểu rất rõ chu kỳ này: thoạt đầu khi còn bé, con cái đè nặng lên đầu cha mẹ. Khi lớn lên, chúng đè trĩu lên trái tim người. Lòng mẹ là chớp bể mưa nguồn đầy những lo toan. Mẹ lắng nỗi đau chìm nổi của nhân thế với cơm áo chồng con hút hết vào mình rồi chất cả lên đôi vai nhỏ nhoi của mình, tất tả đơn độc gánh gồng chạy xuyên qua suốt cuộc đời lận đận. Mẹ đảm đương cả công việc đồng áng nặng nhọc nhất của đàn ông:
Lầy sục đồng Thung, chua mặn đồng Lao
Mẹ đã mất cả một thời con gái
Để kênh đồng, rửa mặn với thau chua
Dằng dặc thời gian lũ lụt cuốn xô
Lên mặt mẹ tạc vô vàn đợt sóng
....
Con cúi xuống bùi ngùi cầm nắm đất
Nặng bàn tay đời mẹ mặn mồ hôi.

Trái tim của người mẹ luôn hướng về những đứa con thân yêu cho dẫu chúng đã trưởng thành. Tình thương của mẹ dành cho con cái không bao giờ thay đổi.
Ngày mẹ mất, Võ Văn Trực về quê chịu tang. Bây giờ anh mới thật sự thấm thía sự hụt hẫng trống vắng.
Bốn mươi tuổi con từng đi khắp ngả
Chân dạn dày gai góc với mưa bom
Đến bữa rày mới thấy thật đời con
Giã từ mẹ- giã từ thời thơ bé
Khung cửa nhỏ mẹ ngồi chiều nắng xế
Ôi hôm nay khung cửa rộng dường bao.

Văn hào Đức Heman Héc có một nhận xét sâu sắc: “Không có mẹ, người ta không sống được, không có mẹ người ta không chết được”. Võ Văn Trực đúc rút được một nhận định xác đáng “Giã từ mẹ- giã từ thời thơ bé”.
Võ Văn Trực viết rất hay về mẹ và chị. Viết Vĩnh viễn từ nay, khác Nguyễn Duy, anh Võ không dùng đến kỹ thuật. Đọc Võ Văn Trực khóc mẹ hay thương chị, ta thấy các con chữ biến đi đâu mất cả, chỉ còn lại một trái tim hiếu để phập phồng đập trên trang sách. Bao nhiêu lần đọc, là bấy nhiêu lần sống mũi tôi cứ cay xè, cổ nghẹn lại.

Chuyện đời bao nỗi đục trong
Câu thơ cháy đến tận cùng buồn vui
(Đêm cuối thu)

Võ Văn Trực đã khai triển đường thơ của mình đúng như tuyên ngôn của anh.
Quê nhà thơ Võ Văn Trực là vùng đất chiêm trũng nghèo ở Diễn Châu, độc canh cây lúa, hầu như không có nghề phụ. Nghề nông ở đây vất vả lắm “Nước xoáy lũng sâu, xác rác chiêm mùa- Cắm cây mạ xuống đồng như đánh bạc- Người mặc khố xoay trần ra nuôi đất”. Hễ xong vụ cày cấy gặt hái là bà con kéo nhau lên mạn ngược làm thuê. Anh thương “Những người vợ vai gánh hàng, xoã tóc - Chạy ngược chiều gió thổi dọc đường thôn”. Thiên nhiên xứ Nghệ quá khắc nghiệt, thất thường “Một tháng hạn đồng cháy khô nứt nẻ. Một đêm mưa làng hoá đảo chơi vơi”. Nhìn ra mênh mông nước trăng băng nhấm chìm cả “biển lúa vàng”, anh đau cái đau của bà con ruột thịt xót của “Bát cơm mới toan cầm tay lại đổ- Ac bạc thay, trời đất chẳng thương người!” (Đêm mưa lũ). Đời sống của người dân sao mà cay cực thế. Họ quanh năm lầm lụi bán mặt cho đất, bán lưng cho trời. Rồi bão xoáy giật cả giải miền Trung “Mấy trăm người bị mất tích trong đêm”.(Mùa thu không yên tĩnh). Nhìn kỹ gương mặt họ anh thấy “Mặt người rạch luống thương đau- Những đường số phận rạch vào thịt da”. Chính những người chân đất đầu trần ấy đã chịu thương chịu khó kế tiếp nhau tạo lập nên làng quê yêu dấu “Mồ hôi, máu đỏ thắp nên- Vầng dương châu thổ ngọn đèn mom sông”.(Đất quê nghèo)

Làng quê Võ Văn Trực được thành lập từ thời Trần. Làng có những gốc đa, cây muỗm cổ thụ hàng ba bốn trăm năm, có nhiều di tích lịch sử ghi lại quá trình hình thành và phát triển thôn mạc. Làng có núi Hai Vai sừng sững đứng trong truyền thuyết- chứa di tích thời đồ đá và dấu vết nhiều cuộc khởi nghĩa chống giặc ngoại xâm. Làng có ngôi mộ cổ rộng một mẫu đất và nhà thờ Hùng lễ bá Võ Cương- một danh tướng của Lê Lợi. Làng có ngôi đền Bạch Y, một nữ thần cứu mạng vua Lê thoát khỏi vòng vây giặc Minh được Nguyễn Trãi ghi trong Lam Sơn thực lục. Võ Văn Trực nói trong nước mắt: “tất cả các di tích này đã bị phá sạch sau Cách mạng tháng Tám. Cả một vùng văn hoá có bề dày 700 năm bị huỷ hoại không thể nào khôi phục được, gây cho tôi nỗi day dứt triền miên và để lại dấu ấn khá rõ trong nhiều tác phẩm của tôi”. Tiếp đến cảnh dời làng rầm rộ, ồ ạt để sắp đặt lại giang sơn của những người quản lý thiếu hiểu biết đã làm cho nhà cửa, vườn tược, mồ mả lộn tùng phèo.
Một làng vui bỗng lạnh tựa tha ma
Khi tiên tổ, ông bà không còn nữa
Mồ côi cả đất đai và ngọn cỏ
Lũ chim non khản giọng lạc bài ca
Mấy chục năm lưu lạc giữa quê nhà.
(Lưu lạc giữa quê nhà)

Anh ngao ngán trước “tan hoang miếu mạo, đình chùa”, anh rầu rĩ nhìn “cuốn gia phả tả tời thành bụi cát”. Anh thất vọng trước “bao âm thanh hỗn tạp - Làm vẩn đục hồn quê”. Mỗi lần về thăm nhà, đến đầu cổng làng, Võ Văn Trực quì sụp xuống “Chắp tay lạy những ngôi mồ tưởng tượng - Nghìn vong linh ớn lạnh cả làn da”. Anh đau uất giẫm nát cỏ đồng đi tìm mộ mẹ “Hài cốt mẹ suốt mười năm lưu lạc - Con đốt trầm lạy bốn hướng vu vơ”.
Bài thơ Nghĩa địa làng là “âm bản của nước mắt” (chữ của Nguyễn Khắc Thạch) ai điếu cho số phận hẩm hiu bi đát của kiếp người.
Đã bao tầng hài cốt xếp chồng lên
Bao nhiêu cỏ, bao nhiêu tầng thế hệ,
Mảnh đất chật, người đông, chen chúc thế
Đã chết rồi vẫn cứ phải chen nhau!
(Nghĩa địa làng)

Đất trả đất, cát bụi về cát bụi. Nghĩa địa là nơi sống gửi thịt, chết gửi xương. Người dân ỏ nơi đây vội sống và vội chết. Nghĩa địa là biên niên sử của một làng, nó giúp ta tưởng nhớ đến các dòng tộc, tổ tiên để phụng thờ. Người chết hoá linh thiêng làm người sống phải lụỵ. Người chết níu lấy kẻ sống, kẻ sống bíu lấy người chết. Lamáctin cho rằng “Mặt trời của người sống sưởi ấm được linh hồn người chết”.
Người nằm dưới kia chân đạp lên đầu
E giấc ngủ khó tròn đêm yên tĩnh?
Tôi rờn rợn nổi da gà ớn lạnh
Kiếp nhân sinh sao quá đỗi nhọc nhằn!

Mộ chí cũ mòn mộ chí lặng câm
Muôn hình dạng như mặt người nhăn nhó
Có phải chăng nỗi buồn tự vạn cổ
Đông lại thành cục uất đá oan khiên.
(Nghĩa địa làng)

Đời người như kiếp phù du, như giọt nước bất định trên đài sen, như giấc chiêm bao, sắc sắc không không. “Cuộc đời ở giữa hai đầu tiếng khóc” (Nguyễn Ngọc Oánh) Có sinh có biệt. Đau khổ vật vã kéo lê cả đời người nhưng chết chỉ trong một khoảnh khắc. Khi chui vào cỗ áo quan mới biết ai là người thoát nợ trần hoàn. Chết chẳng qua là một cách đổi xác. Con người đâu có chết, nó tự sát đấy thôi.
Tất cả sẽ chết để mọi vật lại tái sinh. Bôđơle kêu lên “Ôi đau đớn! Ôi đau đớn! Thời gian ăn cuộc đời!” (O douleur! O douleur! Le temps mange la vie!). Trần gian và địa phủ lúc nào cũng quay cuồng trong tâm Võ Văn Trực. Ông Tản Đà báo “Quý chi chữ thọ mà mong sống nhiều”. Con người sống khổ quá nên coi nhẹ sự sống, nhưng chớ coi rẻ cái chết. Cuộc đời sẽ dài ra nếu ta biết cách dùng nó. Hãy mỉm cười trước số phận. (Grin and bear it - Tục ngữ Anh). Và đó là cảm hứng trào dâng để nhà thơ viết nên kiệt tác Nghĩa địa làng.

Võ Văn Trực đau nỗi làng, đau nỗi người chết, đau cả nỗi người đang sống. Anh thương chị gái sống lầm than, đọc được trên gương mặt chị “Thời gian như một triền sóng nổi - Xô buồn đau lên mặt chị già nua”, nhưng lúc nào với em chị cũng nhân hậu làm anh làm ả phải ngả mặt lên (ca dao). Sau bài thơ thống thiết Khóc chị của tướng quân Nguyễn Hữu Chinh (chị gái đây bà Nghè Phạm Nguyễn Du), thì bài Chị của anh Võ có thể sánh ngang với áng văn hay đó. Anh nhói lòng trước đám cưới vợ của đứa cháu côi cút sớm mất mẹ nay đã trưởng thành. Anh thương lũ cún con - 6 sinh linh bé xíu sắp phải chia lìa “sáu phương trời biền biệt mồ côi”. Anh thương con nuốt đắng vào lòng “Áo quần chưa đủ ấm”. Anh nhỏ nước mắt nuối tiếc, tự hào trước đám tang người kể vè - một nghệ sĩ dân gian “Chín mươi chín tuổi rồi, ông nhắm mắt - Như một nhà chép sử đã buông tay”. Anh hốt hoảng “Khi thằng bạn bỏ làng đi biệt xứ?” vì không thể sống nổi ở quê. Thiếu người bạn tốt này làng trống trếnh đến mức “như rừng mất một cây cổ thụ”, “xóm mất một ngọn đèn trong khuya”. Anh thương một người bạn thơ “nanh vuốt cuộc đời - cứ truy đuổi đến tận cùng số phận”. Anh sửng sốt trước cảnh “Thời gian cứ rụng dần - Biết bao người bạn tốt”. Anh căm giận chồm dậy “xé tan nghìn mảnh tả tơi đêm” tấm ảnh một người bạn khác “giờ làm quan” trở thành kẻ đầu cơ chính trị “đôi mắt hắn - lạnh như hai lỗ âm hồn”, “Hắn giống lũ ăn trên ngồi trốc - Coi dân đen như cỏ dại bơ phờ”. Nước mắt trào ra anh xót thương khóc cho bạn xưa tốt thế mà nay tha hoá đến tận cùng “Đầu vào là ngọc quý - đầu ra: bùn khuấy đục ngầu”. Trong cơn tai biến, đứng khựng trước một thằng “bạn rởm” khác, anh đe “Huyệt đào đã ngập ngang lưng - Xin đừng thớ lợ xin đừng lừa nhau”. Anh bầm gan tím ruột mắng cái đồ bạn “mặt thớt làm ngơ!” lủi đi trong “xe ngựa linh đình” bỏ mặc anh trong cơn hoạn nạn. Anh xót xa trước nhân tình thế thái đen bạc, vạch mặt “Những kẻ đầu cơ đến cả lúc bi ai và cái chết”, có lúc anh quẫn trí thấy mình “vung sức lực với tháng ngày vô nghĩa”. Anh nhận ra “Hồn ta nghìn trận gió gào đơn côi”. Và lúc nào cũng thon thót “Giật mình một mảnh trăng nghiêng cô hồn”. Anh ngẫm nghĩ để xoa dịu mình “Trái tim đau đau gấp vạn lần- Khi nhịp đập hoà chung nhiều cảnh ngộ”. Thật là ngổn ngang trăm mối.
Lẽ đời thấu hết nông sâu
Chén vui chưa cạn chén đau đã đầy.
(Uống rượu cùng bạn)

Khi “Ngọt bùi đã trải, đắng cay đã từng”, chung chiêng giữa cuộc đời nhí nhố, nhà thơ không tài nào ăn nhập vào cảnh sống mới “Nửa quê kệch nửa thị thành”, “dở tỉnh dở say”, “dở chuột dở giơi”, “nửa kia điện sáng - nửa này sương giăng”. Anh ngột thở kẹt giữa:
Hai tờ sách mở hai bên
Tôi nằm ở giữa khâu bền sợi đau.
(Nhà tôi)

Giữa hạnh phúc mong manh, anh tha thiết van lơn “Xin đừng bão nữa gãy cành đổ cây”. Nhưng may thay, anh giống nhánh xương rồng kiệt cùng tóp teo vùi trong cát khô mà vẫn “Nỗi đau rút ruột thành hoa”. Và anh “Tôi đứng lặng trong niềm vui tê tái”, để rồi chỉ còn biết “từng dòng lật xới” các con chữ viết, viết và viết... Tôi đã hiểu ra Chuyện làng ngày ấy thiên ký sự đẫm đầy nước mắt về làng quê đã ra đời trong tâm trạng bức bối ấy!
Võ Văn Trực vẫn luôn đợi chờ một cái gì đó. Anh thiết tha ước muốn:
Tôi mơ những sáng mai hồng
Bóng đêm tan hết, mặt đồng sáng tươi
Đất quê rạng với mặt người
Lúa reo trước ngõ ngô cười sau nương.
(Đất quê nghèo)

Võ Văn Trực là nhà thơ của mùa thu. Anh viết nhiều và khá thành công về mùa thu, góp phần hoàn chỉnh thêm bức tranh thu trong thơ ca Việt Nam. Anh luôn lắng lòng nghe và se sẽ hỏi “Mùa thu về rồi đó ư em”.
Anh cầm trên tay tiếng hót chim khuyên
Đang đọng lại ngọt lừ trong quả chín
Một nửa quả mùa thu chưa kịp đến
Còn mịn xanh sắc vỏ đợi bồi hồi

Anh cầm trên tay giọt nắng vàng tươi
Lá lốm đốm thu mới về bỡ ngỡ
Một nửa màu xanh còn ấm nhựa
Cuống lá run lưu luyến đậu trên cành.
(Thu về một nửa)

Trong vườn, hoa lá thường im bặt trước những tâm hồn đóng khép, nhưng lại sẵn sàng mở lòng ra ban tặng những bí mật của riêng mình cho ai đó muốn hiểu biết và khám phá. Chim có vía, cây có hồn mà. Thiên nhiên không làm gì mà không có đối tượng. Nó chỉ trao cho ta mầm nụ để hiểu biết chứ không phải là sự hiểu biết. Mọi cái kỳ diệu tuần hoàn trong trời đất đều có căn nguyên của nó. Hãy tìm hiểu xem. Anh thủ thỉ với chim nhạn:
Ơi chim nhạn, sứ giả của tình yêu thầm lặng
Lòng tôi thu từ độ có em về
Tâm hồn anh thường run lên trước những giao mùa của cảnh vật.
Trong suốt trời thu phơn phớt nắng
Một sắc vàng vừa đủ để bâng khuâng.
(Chim nhạn)
Có khi tác giả lịm người thảng thốt:
Mảnh trăng đã rụng ngang trời
Mùa thu đã chết tuyệt vời trong tôi
(Đêm cuối thu)

Cứ đến thu là lòng thi nhân lại xao xuyến, reo lên “Thu đến chờ ta ở cuối vườn”
Giữa ngọt ngào vẫn thấm chút dư vị bùi ngùi của thời cuộc:
Hương vờn quả chín mong manh
Mùa thu cứ lượn vòng quanh nỗi buồn...
(Hồn tôi như thể trái cây)
Cảm nhận tinh tế của thi nhân có được là nhờ cặp mắt mai mối của tình yêu:
Khi hé cửa em vào sương đẫm ướt
Sau lưng em trĩu vườn thu quả ngọt
Lá rải vàng như những dấu môi hôn.
(Vườn thu)
Thật là thanh tao, thầm kín:
Cánh hoa nở tím chân bồi
Ngỡ ai lơ đãng nụ cười bỏ quên...
(Hoa tím)
Nhà thơ rất dễ mủi lòng, thổn thức trước những kỷ vật:
Nghe tủi hờn một giọng hót chim khuyên
Đủ thức dậy ái tình lên tiếng hát
Bông hoa ép lặng thầm trong trang sách
Đủ cho lòng bay dậy một mùa hương.
(Một mình tôi tìm lại)
Ong hút mật rù rì chiều nắng biếc
Trái tim anh cũng chín với cây vườn
(Vườn thu)
Lòng yêu len cả vào trong mộng mị:
Đi qua vườn buổi sớm
Bông hồng chờ đợi ai
Đêm về tôi hái trộm
Cầm phải một nhành gai.
(Hái trộm)

Trong tình yêu “Cứ mỗi bận giằng ra cho đỡ khô - Là một lần ta lại đắm say thêm”. Anh triết lý “Cái đẹp của tình yêu là một nửa - Cứ xa vời huyền ảo ở trong ta” (Một nửa). Anh nhớ thương “Em đan áo cho anh mùa gió bấc - Như đan lời vào mỗi một trang thơ” (Vườn thu). Khi đã thấm vị đắng của tình yêu, cũng phải biết liều chứ sao? “Biết yêu thì khổ vô cùng - Không yêu cũng khổ, cầm lòng cứ yêu”. Chính vì thế nên “Tay anh cầm một ảo giác cô đơn” khi lục tìm trong ký ức vu vơ mối tình đầu trong trắng. Tình yêu của anh nảy nở đậm đà trong hương vị ca dao:
Em trao anh một quả hồng
Còn bao nhiêu quả lẫn trong lá cành
Còn bao nhiêu quả đang xanh
Còn bao nhiêu quả chưa thành nụ hoa...
(Vườn hồng)

Để rồi thi nhân sống trong ngây ngất “Tôi lạc tận nơi nào không biết nữa - Hạnh phúc này đến thật với tôi ư?” (Hương vườn)
Thơ Võ Văn Trực thường mắc các chứng sau:

1) Như một lão nông thực thụ, anh Võ ưa thâm canh trên cánh đồng thơ của mình. Việc này hay nhiều mà dở cũng lắm:
Thâm canh kỹ quá về đề tài. Đau bệnh thì có gì phải viết tới những ba bài (Ngày tôi đau - Trong cơn tai biến - Sau một trận ốm thập tử nhất sinh). Bão dùng quá nhiều (Người điên trong mưa bão - Xin đừng bão nửa - Hương trong vườn bão). Mùa thu được khai thác triệt để (Thu về một nửa - Vườn thu, Thu chơ - Sang thu...)
- Thâm canh quá kỹ về hình tượng: Hình ảnh sóng luân hồi trên gương mặt người, anh Võ viết lặp: “Dằng dặc thời gian lũ lụt cuốn xô - Lên mặt mẹ tạc vô vàn đợt sóng” (Vĩnh viễn từ nay), “Ôi thời gian như một triền sóng nổi - Xô buồn đau lên mặt chị già nua” (Chị), “Chú tóc bạc như sương dầm ngọn co - Gương mặt nhăn nheo thời gian sóng vỗ” (Gặp chú giữa thảo nguyên)
- Thâm canh hơi bị kỹ về cấu tứ, thể thơ: Anh Võ làm thơ theo lối cũ, ít sáng tạo, có lẽ không mất công nhiều lắm. Anh có một cái khuôn sẵn, chủ yếu là thơ 8 chữ, cứ thế rót ý tưởng của mình vào đúc thành thỏi. Có khi anh được vàng, bạc, có khi chỉ được đồng, chì, không chừng. Âm hưởng chung các bài cứ đều đều (monoton) na ná một giọng.

Anh lặp mình, rồi lặp người. Anh Võ viết về ý trung nhân xưa của mình:
Tôi đã già đi sau nhiều biến động
Cô gái xưa giờ ẵm cháu bên thềm
Ca dao đã có:
Ngày đi trúc chửa mọc trăng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang
Không những thế mà còn tiến xa hơn:
...Ta đi qua ngõ gặp con mình bò
Con mình những trấu cùng tro
Ta đi gánh nước rửa cho con mình

2) Chất văn xuôi, chất ký khá đậm, đuôi vè còn chưa cắt được ở một số bài. Nhịp thơ khai triển chậm chạp.

3)Thỉnh thoảng anh Võ còn nổi máu đại ngôn. Những câu thơ khoa trương quá liều lượng như thế này nên chăng?
- Lưỡi liềm ai cắt cỏ trên đồng
Xua hương dạy đầy trời thơm mãi?

- Bàn chân ai khoả nước cầu ao
Đến tận bây giờ chưa lặng sóng.

- Lời mẹ ngân như ngọc sáng trong ngần
Trải năm tháng ngâu không vầy được ngọc
Lời mẹ ngân ngọt thắm quả hồng ngâm
Trải năm tháng không ố mùi chuột vọc.

4) Chữ dùng còn thô tục quá. Đó là trường hợp anh Võ không nén được phẫn nộ đến mức văng ra “thằng mặt thớt”, “bạn rởm”, “bên hồ con đĩ tụt quần nằm chơi”... đọc mà ghê. Tác giả đang tự làm bẩn cả bài thơ, tập thơ chứ đừng nói là không trang nhã. Khi viết về cái xấu thơ chỉ có được quyền là phải nói cho nhã.
Thấm thoắt thế mà đã 40 năm anh Võ cầm bút. Từ tập Cây xuân (1962), qua Trận địa quê hương (1972) đến Trăng phù sa (1983), Tiếng ru đồng nội (1990), Hương vào vườn bão (1995) là cả một bước tiến dài. Hai tập đầu thử nghiệm để định hình, ba tập sau mới là định danh. Nửa trước, thơ anh viết về cái chung, nặng ngợi ca, êm ái, nửa sau nghiêng về riêng tư, nặng phán xét, dữ dằn hơn.
Đời tôi như đứa trẻ nghèo
Nhặt gom may được ít nhiều hương hoa
(Với thơ)

Với thơ, Võ Văn Trực đã cởi mở tiết lộ mọi bí mật của tâm hồn anh. Đó là trái tim bóc trần của một người chính trực luôn gắn bó với đời nhưng cô độc, ưa trầm ngâm chiêm nghiệm và phán xét trước mọi nhân tình thế cố. Võ Văn Trực đã trút bỏ được đôi cánh nặng nề của hiện thực để thơ thanh thoát bay lên. Thơ anh chân mộc mà thắm, trực diện và quyết liệt, phúng thích mà vẫn trữ tình. Thơ Võ Văn Trực chứa hương, bão, máu, lửa cháy đến tận cùng buồn vui của kiếp người. Đọc thơ anh, khó mà ngủ được, có cảm giác tác giả như “phọt từng miếng óc” khi viết, cung cách làm thơ đau đớn giống “con trai rút mình làm ngọc”. Những câu thơ đau xé có sức lay động ghê gớm làm ta “dựng tóc gáy”, “râu xanh trắng cước” (chữ của Nguyễn Trọng Tạo)

T.D.H
(168/02-03)

Thạch Quỳ - Người nuôi ảo mộng giữa chiêm bao

Người đăng: THÁI DOÃN HIỂU Thứ Hai, 15 tháng 3, 2010 0 nhận xét



THÁI DOÃN HIỂU

Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.

Có mùi mật trong hoa
Điều đó chú ong vàng cũng biết
Có hương thơm ẩn giữa sắc màu
Cái chuyện này, bướm tím biết từ lâu!
Nhưng bạn ạ! Hương trầm trong gỗ mục
Thì ong vàng, bướm tím có hay đâu...
                                                                                              
(Luận về hoa)

Khi làm thơ, Thạch Quỳ luôn tìm ra “Hương trầm trong gỗ mục”. Đấy là tài năng, và cũng là thi pháp nổi trội của anh. Bạn đọc có thể lấy điều ấy làm chìa khóa giúp tiến sâu vào địa hạt thơ ca Thạch Quỳ để khám phá và hiểu biết.

Thạch Quỳ đã cho in 7 tập thơ nhưng người không có khái niệm về hai tiếng “tập thơ”, thường lấy đơn vị bài làm thước đo bản vị cao thấp thơ mình.

*

Thơ Thạch Quỳ là một thứ thơ bản ngã nguyên chất. Nhà thơ luôn luôn tìm cách nói về mình và nhân danh mình để viết. Anh bảo “Thân thể tôi như chiếc cột ăng ten - Vừa phát sóng, vừa tự mình rỉ sét”. Nhà thơ ráo riết đi tìm cái tôi bị đời đánh cắp, đánh tráo, đồng hóa giữa một cuộc sống chẳng êm ả chút nào, bao giờ cũng gập ghềnh đầy tai biến. Là người có khí phách và cá tính mạnh, Thạch Quỳ đã hứng chịu nhiều tai bay vạ gió “Từng đối mặt với bạo tàn chết chóc - Máu trào tuôn, sẹo đóng tự trong hồn - Tôi mệt mỏi đến không còn sợ chết - Nhưng vẫn lòng ham sống thật tôi hơn (Tôi). Thạch Quỳ từng sống trong tâm trạng “Anh đã đi như người trong mộng - Anh đã bơi như người trong sóng”, và lâm vào tình huống không mấy sáng sủa “anh đã khô kiệt cùng đá sỏi - anh đã kêu kiệt cùng tiếng gọi - anh đã mơ cạn kiệt giấc mơ” (Cuối cùng vẫn một mình em). Không còn cách nào khác, trời thấp nhà thơ buộc phải đi còm “Len lỏi giữa thiên thần, yêu quái - Lẽo đẽo bóng mình dị dạng sau chân...” (Đêm vườn rừng). Một sự giằng xé nội tâm quyết liệt, ảo giác dày đặc bủa vây Thạch Quỳ “Bàng hoàng giữa một ngày - Mình sống hay chẳng sống?” (Không đề), thi nhân cảm thấy mình rất đơn chiếc “Nghìn năm rồi biển hát - Một bài ca chán nhàm - Tôi nghìn năm trước biển - Dấu chân còn lang thang” (Viết trước biển). Giữa mênh mông tuyết trắng rợn ngợp không bến bờ ở xứ người, anh thấy mình chỉ là một “chấm nhỏ giữa bốn bề hư vô” (Tuyết). Từ những chiêm nghiệm vật vã đau đớn đó, Thạch Quỳ đã nhận ra “hạnh phúc trang nghiêm trong thất vọng kiếm tìm”. Và giữa đời thường, nhà thơ khác thường này cũng có lúc bế tắc “Rồi dẫm chân tại chỗ - Tôi quẩn theo bóng mình”, buông xuôi tay chán ngán “Tôi chẳng còn chính tôi - Thơ nối dài chi nữa” (Thư). Nhà thơ tự thấy mình là một người thừa giữa nhân thế:

Điều tôi nói chừng Chúa Trời chưa biết
Phật chưa nghe và Trời cứ làm thinh
Tôi nhỏ nhoi tồn tại chính mình
Nhân danh một chính mình tồn tại
                                       
(Tự khúc mùa xuân)

Đó là sự “mềm yếu” tinh thần cao cả duy nhất của Thạch Quỳ
.
Lỗi lầm chủ yếu và lớn nhất của Thạch Quỳ là có khá nhiều lỗi nhỏ. Thạch Quỳ làm chủ ý chí và thành tâm làm kẻ nô bộc cho lương tâm của anh. Người có lương tâm trong sạch giúp định hướng cho cuộc đời vào con đường ngay thẳng tươi sáng và có thể chịu đựng được những thử thách nghiệt ngã.

Khi lương tâm bảo thì phải tuân lệnh. Sống, đừng để lương tri khiển trách và chớ trốn chạy sự quở mắng của tục nhân. Trước pháp đình của nhân cách, chẳng có ai làm chứng trung thực bằng lương tâm. Nó là vị quan tòa thiếu tư cách pháp nhân nhưng lại thừa đạo hạnh. Lương tâm chính trực và tỉnh táo luôn minh chứng cho anh tất cả, tốt hơn mọi lời tụng ca hay xỏ xiên xằng bậy.

Thạch Quỳ đến với nghề văn thật gian nan. Nhà thơ đã từng kể về công việc làm thơ của anh: “Khoảng 15 năm, tôi phải sáng tác trong phòng ngủ tập thể. Lúc 11 giờ đêm họ tắt đèn đi ngủ, tôi dùng bút chì để ghi chừng, viết mò trong bóng tối. Tôi thức thâu đêm, từ đó thành thói quen. Viết văn, làm thơ trái với nghề chính nên phải vụng trộm, giấu lén và luôn bị khích bác. Nhưng lòng say mê đã thắng. Tôi luôn luôn hướng tới những cuộc cách mạng, những vụ bùng nổ trong tâm hồn con người để đến với cái đẹp” (Tự bạch). Thạch Quỳ rất dễ thơ, thấy bất cứ cái gì, điều gì, anh đều nhanh nhẹn nghĩ ra một cái gì đó khác người để viết: thuốc lá, tim, đàn tế trời, hồ Kẻ Gỗ, đền Cuông, khó ngủ, khói, tôi... Anh ưa cười. Phiếm luận của anh toàn giọng bỡn cợt chòng ghẹo buông tuồng nhưng mà đau, ánh lên chất thông minh quái quỷ.

Với thơ, Thạch Quỳ có những hình ảnh ví von thật đạt “Trung liên quây như chảo mật đang sôi”; những nhận xét tinh vi “Đỉnh sừng nhô hai hạt nếp trắng tinh” (Trâu đi), “Dưới cao vợi sao dày như nếp nổ” (Tiễn em trai đi vào, tiễn em gái đi ra). Nhà thơ như một lão nông, quan sát kỹ không bỏ sót đến cả “Bọt trứng vàng gốc lúa, bùn sâu nằm sủi tăm”; những hình ảnh về chiến tranh gây ấn tượng “Có thành phố nào như thành phố này không - Chưa thấy nhà cao chói lọi sắc hồng - Đã thấy sắc hồng cười trong gạch vụn” (Gạch vụn thành Vinh). Thạch Quỳ dựng được những thi tứ rút ra từ trong khoảnh khắc hiếm hoi “Những con bê - bom xẻ đôi bò mẹ - Vẫn ngậm nguyên núm vú nhay hoài” (Tâm sự thần sấm sét...), và “Những hàm răng xích xe tăng - Đang nhai nghiến ruộng vườn trong lửa đỏ”. Nói về cái khốc liệt của thiên nhiên ở một vùng quê, anh tả gió Lào nóng bỏng “Cây trâm bầu gió nhổ rồi - quẳng lên cả rễ ngang trời mà quay” giữa hối hả âm thanh “Tiếng đa đa kêu vỡ đá gầy”. Anh có những câu “độc” “Chiêm bao gặp mộ mình không cỏ mọc - Riêng điều này là nỗi sợ của tôi” (Bên lề cỏ Uýtman). Thơ Thạch Quỳ có nhiều câu rắn đanh chứa chất tục ngữ “Giọt mưa gom hạt bụi hóa phù sa” (Gom nhặt trên bãi bom B.52), bên những câu dân dã đầy kỷ niệm tuổi thơ “Trẻ chăn trâu cổ quấn dây thừng - Nhảy và hát khúc đồng dao cúng quắng” (Ghi chép ở đền Khai Long). Nhà thơ hay đặt những câu hỏi oái oăm làm người đọc chau mày sau đó mới vỡ ra nhiều lẽ “Nghìn năm mưa đã từng mưa - Thấm vào viên sỏi hay chưa thấm vào?” (Lời nghìn năm). Bằng cảm quan lịch sử và văn hóa cao, Thạch Quỳ có sự nhìn nhận để thể tất nhân tình trước bi kịch nước mất nhà tan của cha con An Dương Vương - Mỵ Châu “Lưỡi gươm ròng ròng máu tươi - Nước mắt ướt đầm yên ngựa - Chỉ có đất với trời và cỏ - Hiểu đường đi của giọt máu người” (Qua đền Cuông ghi chuyện cũ). Thạch Quỳ nghe từ màu sắc, nhìn từ âm thanh “Lặng im trên cát con sò - Nằm nghe sắc tím đổi mùa trên lưng” (Làng cát). Tâm hồn nghệ sĩ đó luôn lay động, tỉnh thức, thâu tóm được cả trời biển trong một ngấn sóng trên bức tường bất động “Với Lan Châu ngấn sóng ánh trên tường - Luôn luôn động theo nhịp trời, nhịp biển”. Thạch Quỳ hào hoa với Huế “Xao xác cả trưa hè trong phượng chói” (Huế), cảm được “Thuyền đêm nằm đợi bóng trăng hoang” (Thôn Vỹ), hiểu được “một trăng suông nhạt chòng chành đáy sông”, thương được “Cái chân ai bước giữa vòng nam ai” (Đêm sông Hương).

Cũng như Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Tản Đà, Tú Xương..., Thạch Quỳ luôn thấm thía cái sự nghèo của mình. Nghèo thì hèn. Giàu có quá là ăn cắp nhưng cùng khốn quá là bởi bị đánh cắp. Luân lý trọng lợi hủy hoại vẻ đẹp của tâm hồn, vô hiệu hóa nhân đức, bêu riếu lịch sử và treo một chiếc gương tối tăm cho lớp trẻ. Ai đó cùng than nghèo khó sống, giàu khó chết. Người nghèo thường sống rất tử tế. Đừng khinh nghèo, chớ cậy giàu. Người Anh bảo “Nghèo không phải là điều xấu hổ nhưng xấu hổ vì nghèo mới là nghèo”. Thạch Quỳ có hai câu thơ vẽ chân dung mình rất Nghệ: “Cái nghèo đội nón cời và nhón chân đi từng bước - Cười sưa răng trên miệng ấm sứt vòi” (Cái nghèo). Anh chỉ tên vạch mặt cái nghèo “Mày núp trong vừng trán mẹ răn reo - Mày ẩn dưới gót chân em nứt nẻ - Mày luồn qua trăm ngàn mối chỉ - Để nằm trong mảnh vá áo con ta”, “Đêm ta ngủ thì mày hóa kiến - Bò nôn nao trong ruột đói của ta”. Anh thảng thốt phát hiện ra “cái nghèo có nọc - Đốt cha ông từ thuở chẳng chăn màn”, “cái nghèo xơ trên bộ cánh làm sang - Cái nghèo xác lại nằm trơ đáy đĩa” (Cái nghèo). Sách Luận ngữ dạy “Nghèo không oán mới khó, giàu không kiêu còn dễ”. Nghèo túng nhưng vẫn chơi sang “Nhà thơ nuôi họa mi - Hót xanh trời trứng sáo”, vẫn lãng mạn “Tôi chờ ai nữa? Mùa thu rộng - Gió thả bên trời lá liễu bay” (Mây trắng mùa thu), vẫn cốt cách phong lưu “Mơ một lần quẫy đạp - Ngập chìm trong sóng xanh” (Cỏ), vẫn trẻ trung phơi phới “Cỏ đừng già cỏ nhé - Dù tuổi thơ qua rồi - Đất giữ gìn cho cỏ - Cỏ giữ gìn cho tôi” (Cỏ), vẫn hây hây lồng lộng hồi sinh khi nhìn ngắm:

Con chim hót nhả hạt cây
Tiếng chim xanh ở trong tay người trồng
Qua bạch đàn đã đến thông
Thấy cây đang độ đuôi công múa xòe
Thấy cây thắp nến bốn bề
Rưng rưng nghìn búp hướng về trời cao
Mùa xuân thả nắng chiêm bao
Thả mưa bụi phấn bay vào rừng thông
Mùa xuân thả nắng mật ong
Cho cây lá nhọn đứng hong nhựa vàng

Lá thông là thực hay mơ
Nửa buông như chỉ nửa mờ như mây.

                                          (Lục bát về thông)

May thay, cái nghèo là nguồn năng lượng kích thích sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ vẫn                        cứ mộng du giữa đời thực đang chực giơ nanh vuốt “Cỏ biếc, bờ xanh, đường sá rộng - Mình tôi lạc giữa ngõ ra vào” (Mây trắng mùa thu), vẫn thủy chung với thơ “thỉnh thoảng nàng thơ ghé đến - Rồi lướt đi, không biết đã về đâu...” (Gửi em); vẫn phấp phỏng với người tình bé nhỏ:

Trời đã tết. Khói xanh mờ bụi nước
Góc vườn con, hoa mận đã đơm khuy
Lòng như đất lặng thầm mơ dấu guốc
Cỏ thanh thiên hoa trắng đợi em về.

                                           (Đợi em ngày giáp tết)

Vẫn yêu một tình yêu “dan díu” say đắm run lên như thuở ban đầu, mặc cho “nhỡ bước chân qua”, mặc cho “Em quay lại, đã trắng mùa trên tay...” (Bước xuân), phó cho quy luật của trái tim nổi loạn:

Có một nửa đang đi tìm một nửa
Như vầng trăng ngoài cửa, phía trời xa...
Anh yêu em hơn thần thánh yêu nhau
Một khẽ chạm tay rung toàn thân thể
Và bởi vậy, tình yêu trần thế
Đủ để thánh thần mơ ước trên cao

                                                 (Không đề)

Đã thế, người vẫn cứ cao giọng lý sự:

Cuối ngày tôi sót lại em
Cuối em, sót lại trong đêm ánh đèn
Giấc mơ mở lối cái nhìn
Ta khép mắt, thấu thị miền không ta.

                                                    (Đêm)

Thạch Quỳ còn ráo hoảnh tự bào chữa đổ riệt cho tất cả chỉ là do “Muốn thoát khỏi tình yêu - Thoát tình yêu chẳng dễ” (Không đề) để trốn tránh trách nhiệm.

Là nhà thơ phải đãi quặng tìm vàng, Thạch Quỳ viết về cái lao tâm khổ tứ của mình khi hóa thân “Viết, viết, rồi lại viết - Vắt kiệt cả máu mình - Tình yêu đặt lên giấy - Tâm hồn thì trống trênh” (Nhà thơ). Lao động nghệ thuật của nhà thơ là thế đấy, gian nan như kẻ vượt cạn, như người đàn bà đẻ mà không có con trong bụng để rặn “Tôi gọi hồn về trong những câu thơ - Giam ngục tối con chữ - Hồn ơi, hồn hãy ở tù - Để xác tôi yên giấc ngủ”. Trong trạng thái cô độc âm thầm trọn vẹn theo nhau như cái bóng, cùng mái đầu bạc chắn ngang cuộc đời, chỉ có điều là “Thân thể không tan thành khói được” (Bài ca thuốc lá), trái tim nhạy cảm Thạch Quỳ “Đều đặn đập bảy mươi lần một phút - Xâu thời gian thành chuỗi hóa đời anh” (Trái tim). Tim nhà thơ mềm nhưng rắn, nó chẳng bao giờ lãng quên nhân thế trong ngực lớn bồi hồi của anh “Trái tim nói những điều hệ trọng - Cả những điều ta tưởng rất vu vơ” (Trái tim). Khi bóng chiều chạng vạng phủ lên tuổi tác, Thạch Quỳ tổng kết nửa phần đời của mình:

Nửa ngửng đầu ngóng tìm cái Đẹp
Nửa cúi đầu xoay tìm cái ăn
Nửa lụy yêu ma, nửa lụy thánh thần
Còn một mái tóc đốm bạc
                                                
(Nửa phần đời)

Người ta kháo nhau ở đâu đó rằng Thạch Quỳ sống ngông, thơ ngông (!?), lãnh đạo không ưa, và những người sống an phận dễ ngán? Tại sao lại không ngông được khi trần trụi giữa đời mọi giá trị đều bị đảo ngược. Một Tú Xương mới tất yếu phải được mọc ra là lẽ đương nhiên, có gì phải phàn nàn, cay cú. Chính Thạch Quỳ đã tự thú để bảo vệ mình “Có gì như có lỗi - Mà có lỗi gì đâu” (Cò). Giữa một xã hội “Người mang hình đá - Đá mang hình người” (Tảng đá hình người), anh kinh hồn nhận ra cái gì cũng lai từ con gà, hạt gạo, đến cả “Thơ phú thị truờng dần lai kinh tế - Nửa hồn ta lai nửa hồn mình”. Sống trong một thế giới rối ren bị xáo trộn “Cái mất đi hú gọi không về - Cái còn lại trơ mòn sỏi đá”, Thạch Quỳ đau cái đau của người mất sạch gia tài văn hóa. Sự nghiệp Thạch Quỳ bò như rùa, còn cái nghèo thì luôn bá vai bá cổ nhà thơ. Xưa nay “nghệ nhân nan phú” (nghệ sĩ khó mà giàu). Chìm nổi là vận hạn của tài tử. Anh hoa phát tiết thường là tai vạ mà miệng là cửa ra của họa phúc. Nhiều người thương thành phúc, lắm kẻ ghét thành họa. Không một hạnh phúc nào là không chứa tai ương, không vinh quang nào lên đến tột đỉnh mà lại không bị tai ách quật nhào. Người mạnh thăng hoa trong bất hạnh, kẻ yếu lụi tàn trong vận may. Thành thử, thơ Thạch Quỳ chứa biểu tượng không phải hai mà nhiều mặt là một tất yếu của nghệ thuật. Cái ưu thế này bỗng chốc trở thành cái thất thế của Thạch Quỳ, lỗi đâu phải ở nhà thơ mà lỗi tại người nhận thông tin có tên là Đố-Ky-Ấu-Trĩ. Bởi thế, cái án “Ngục văn tự” vẫn còn là chuyện kể dài dài đeo đẳng hành tội các kẻ sĩ chân chính tồn tại hàng nghìn năm tới nay. “Là người nuôi ảo mộng giữa chiêm bao”, Thạch Quỳ chán nản quả quyết khẳng định “Cuộc đời tôi thật nhất vẫn là mơ...”. Anh nói vậy mà đâu phải vậy! Từ khởi thủy, con người hình thành cách sống, bài học vỡ lòng đầu tiên là tính lạc quan. Cái lôi cuốn nhất trong đam mê cá nhân là hy vọng. Nó vực ta dậy, nuôi dưỡng, xuýt xoa cùng ta những cay đắng mùi đời. Hy vọng thường chen lấn nằm ngay cả trong tuyệt vọng. Phẩm tiết của người có tâm hồn lớn là luôn hy vọng, đẩy lùi sự tuyệt vọng. Thật là bất hạnh và khốn khổ cho ai đó chẳng biết ngày mai mình phải làm gì. Với họ, hy vọng là giấc kê vàng của kẻ điên rồ khi thức giấc. Ở đâu có cuộc sống, ở đó có hy vọng. Chớ ảo vọng vào ai đó, đừng vọng tưởng vào một cái gì quá sức. Kỳ vọng thái quá chỉ tạo ra sự gạt gẫm mình, bắt ta phải trả giá. Trên trường đời, nếu chẳng may sa chân rơi xuống vực thẳm thì tuyệt vọng sẽ nhân đôi lên sức mạnh của chúng ta nếu biết cách chế ngự nó. Tuyệt vọng là bà đỡ của kẻ cố cùng. Và rồi, hy vọng sẽ làm cho vết thương thành da, hy vọng xua đuổi mọi sự khốn quẫn. Còn sống còn hy vọng. Có hy vọng, có tất cả. Biết nhìn thẳng vào tương lai thì sẽ không bị hối hận bởi quá khứ. Nhà thơ hãy kỳ vọng ở chính mình!
Thạch Quỳ vẫn hy vọng trong đợi chờ “Nửa phần đời chong mắt đèn xó tối - Nửa phần đời khép mắt ngóng ngày lên” (Nửa phần đời). Giằng co giữa cơm áo và thơ, thi nhân vẫn chưa mất niềm tin ở quy luật sống:

Nghìn năm biết có còn không
Hoa trên đá, phấn trên thông ghẹo người...
Tháng năm lần lữa đắp bồi
Lặng im để cỏ nói lời nghìn năm.

                                                        (Lời nghìn năm)

Thạch Quỳ rất thích ngao du với văn nhân tài tử và trong lúc chơi anh đã rút ra được phần cốt tủy trong văn nghiệp và tính cách của họ. Với tiền nhân, Thạch Quỳ mộ đạo Nguyễn Du “Cụ đi tìm chân kinh - ở thứ kinh không chữ” (Viết bên mộ Nguyễn Du). Với bạn văn cùng thời, anh ưa chất lãng tử chịu chơi ở Nguyễn Trọng Tạo “Tản mạn một thời - Một thời tản mạn - Dấu giày cát bụi - Lấm đầy thủy tinh” (Tặng Nguyễn Trọng Tạo). Anh khâm phục sự cần mẫn miệt mài viết, viết và viết ở Ông Văn Tùng “Dù ảo thuật với văn chương, kiêng kỵ - Thì nhà văn vẫn là kẻ xuyên tường” (Nhà văn và bốn bức tường). Với Nguyễn Duy anh yêu cái mộc mạc đến là dân dã ở nhà thơ này “Giả say, thơ phú ậm ừ - Thật say, ngã cái đứ đừ bờ ao” (Rượu làng vang). Với Võ Văn Trực, anh nghĩ tiếp đào sâu tới cái kiếp người với nghiệp chữ của tác giả Nghĩa địa làng nổi tiếng “Mai ta thành bụi - Biết tên là gì - Đám tro chữ nghĩa - đen trời âm ty - Mai thơ thành bụi - Biết tên là gì - Đám tro chữ nghĩa - Mang hồn đam mê” (Bụi)… Đùa cùng bạn bè, bao giờ Thách Quỳ cũng cất giọng ba lơn cười hóm dễ nghe, nhưng với người đã khuất như nữ sĩ tài hoa Xuân Quỳnh, giọng thơ của anh lại chùng xuống ngậm ngùi thành kính trước người đồng thanh tương ứng “Bây giờ gió rối trong màu cỏ - Tôi rối tóc mình trước bạn tôi”, “Cỏ xanh tròn nấm mộ - Yên lặng bóng chiều rơi” (Nghĩa trang chiều).
Thạch Quỳ thực sự là nhà thơ thứ thiệt của làng quê. Sau Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân, cùng Ngô Văn Phú với Trần Đăng Khoa. Thạch Quỳ đang góp phần hoàn chỉnh bức tranh quê ở phương diện tả trực tiếp công việc nông tang nặng nhọc cày cấy, gieo trỉa, gặt hái giữa mù mịt thiên tai hạn hán, lụt lội, bão tố hoành hành khắc nghiệt... Đây là đất quê hương Đô Lương của nhà thơ “Đào đất lên nơi nào cũng đỏ - Đập đá ra có ánh lửa ngời”; nơi đó “Hạt cát biết mọc cánh bay - Làm mưa trên mái, suốt ngày mưa khô” (Làng cát); nhưng chốn ấy có những nàng thôn nữ  xinh đẹp duyên dáng, đảm đang nổi danh gái Phường Lường “xắn quần ngang gối giục trâu cày” giỏi lội bùn cấy lúa và cả “Ghẹo khách qua đường mượn câu hát dặm - Che nón cười gương mặt đỏ như say”; nơi đó có những sản vật quý “Vải mật Thanh Lưu chín mọng đầu cành”, có những địa danh Khả Lưu thời Lê Lợi dàn quân huyết chiến cùng giặc Trương Phụ, có danh thắng “Vực Cóc đây thăm thẳm một hang trời - Bè nứa chui vào ngỡ đi về xứ khác - Nhớ lúa Ba Ra mỉm miệng cười - Trắng xóa muôn nghìn thác bạc” (Đất Đô Lương). Là thầy giáo dạy toán học, Thạch Quỳ tả tiếng chim tuyệt đối chính xác, anh lắng nghe bằng cả tâm hồn: “Tiếng dú dị trầm đều như đất thở”, “Tiếng gà gáy cong như vòi hái”, “Tiếng vàng anh tròn như đồng tiền - Gieo tít tận trời cao gieo xuống”, khi lại là “Tiếng vàng anh vàng lựng trái xoan...”,Con cú rúc sôi tròn như thắng mật”, “Nghe cu đất hót tròn vo hạt đỗ”, “Chiền chiện hót thơm lừng mao lúa”, “Chèo bẻo hót xanh trời trên ngọn mít”..., khi quan sát anh huy động tất cả các giác quan “Tiếng chim chiền chiện không tan vào im lặng”, “Tiếng chim len trong lá hé mắt nhìn...”,Con mách khách nhảy cành cam qua cành khế”, “Tiếng con chim kẹt võng nhớ lời bà”, “Con chim hét kêu đêm mẹ ra đóng cửa - Con quạ kêu ngày bà lo đàn gà toi - Tiếng chào mào ríu rít những trưa vui”. “Lúa chín sẫm trên lưng con cu vày hót xù lông cổ - Nắng lên rồi, tu hú gọi bâng khuâng”, “Buổi cày trưa bìm bịp gọi trong lùm”, “Tiếng khướu đất hót từ cái mỏ khum khum”,”Con sáo hót làm đầu ta ngoái lại”, “Bọn giết người không thể hiểu tiếng chim đâu - Ta lấy tiếng chim làm mật lệnh”... Những lúc ấy, ta thấy Thạch Quỳ có miệng ngậm và tai mở. Nghe tiếng hàng trăm loài chim hót chộn rộn mà phân biệt được rạch ròi tinh tế đến vậy để rồi hạ được một nhận xét có tầm khái quát cao “Giữa cuộc đời lẫn lộn cả buồn vui - Tiếng chim cũng tiếng lành tiếng dữ” (Tiếng chim). Phải là người gắn bó sống nhiều ở làng quê, say mê máu thịt, để tâm quan sát kỹ Thạch Quỳ mới viết có chiều sâu và thi vị đến thế. Cái biết quyết định cái thấy, cái hay của Thạch Quỳ thuộc về vốn sống, kinh nghiệm, tài năng, tấm lòng nhân hậu của anh. Trực giác thi ca của Thạch Quỳ thường nảy nở bên trong tiềm thức.

Tiếng chim rót làm mầm cây mở uống
Sắc màu xanh, tiếng hót cũng xanh
Tiếng chim treo trên quả chín rung cành
Che suốt đường em đi cùng anh...

                                                  (Tiếng chim)

Nhà thơ làm thơ gieo bằng các con chữ chung. Người thưởng lãm thơ phải lấy cái thâm tình nồng hậu của riêng mình tự tâm đắc để thấu triệt cái lẽ ở chỗ tác giả nói thầm, lúc ấy ta mới mong mở được cánh cửa để nhìn vào một thế giới mới bên trong - cái mà Lục Giả thời xưa tâm niệm “Ẩn chi tắc đạo, bố chi tắc vi thi” (Ẩn bên trong là đạo, bày ra bên ngoài là thơ). Thơ hình thành từ những trận bão lòng. Các bài thơ hay dường như ra đời một cách ngẫu nhiên, bất ngờ như tình yêu bỗng dưng xuất hiện, nhắm tới một đối tượng xác định và một mục đích nhất định.

Không phải ai tu cũng đắc đạo cả. Thi sĩ là con ong. Phải biết chọn hoa để làm mật, không cẩn trọng dễ thành ra mật đắng. Thạch Quỳ đã nhập cõi bằng tâm đức và số phận của mình. Thành thử đọc thơ không dễ. Thiếu một cặp mắt tinh khi đọc sẽ vùi dập nỗi khổ tâm của người viết. Tìm ra chỗ khúc mắc mới tỏ được nỗi tâm huyết của nhà thơ. Ngôn ngữ là cái bóng của hành động, việc làm, nó lột tính cách thi nhân. Giữa giấy trắng mực đen, chữ nghĩa quyết định sự sống còn của tác giả. Rõ ràng là thực tiễn của thi ca Thạch Quỳ đã ứng với điều chăm bẵm của nhà thơ “Bản chất cái đẹp có các phẩm chất của nó. Một cách hồn nhiên nhất, như không hiểu biết, nghệ sĩ luôn sáng tạo để phát triển cái đã có, đã nhận thức. Nghệ sĩ phải cao hơn những lời tán tụng, sự hâm mộ và cả sự tán thưởng của công chúng” (Tự bạch).
*

Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long cho rằng “Người làm thơ có thể giàu có ở vạn bài nhưng có khi lại nghèo ở một chữ”. Thơ Thạch Quỳ có những điểm yếu nhất định về cấu tứ, thi pháp, ngôn ngữ. Chúng ta có thể dễ dàng nhặt ra được những hạt sạn nhỏ ngay cả trong bài thơ hay như Tiếng chim: - Từ đồng nghĩa khác âm còn thiếu nên hay lặp: “Chỉ biết tiếng bom gầm không át được - Tiếng chim nằm trong trái tim người đi.”
Chữ “trái tim” đã dùng hai lần ở trên, nên thay vào đây bằng từ tương đương “lồng ngực” hợp lý hơn.

- Thừa chữ: “Anh bạn Lào nhớ con chim trên váy xanh thêu chỉ của Bunmi”. Câu thơ này hơi bị “Lào” hóa và thừa hai chữ “chỉ” và “của”, đã thêu dĩ nhiên phải bằng chỉ, trong văn cảnh không phải của Bunmi thì của ai vào đây. Thử chữa lại: “Anh bạn Lào nhớ con chim thêu trên váy xanh Bunmi”, có Việt hơn không?

Sắn đã gieo xong, đỗ đã tỉa”. Hạt mới gieo, sắn trồng bằng hom (thân cây) thì gieo thế nào được. Tỉa là cắt bớt cành. Tiếng Nghệ nói gieo là trỉa. Câu thơ nên chỉnh lại “Sắn đã trồng xong, đỗ đã trỉa”.

Tiếng chim rót và mầm cây mở uống”. Giữa chữ “” và chữ “làm” tiếng nào đạt hiệu quả nghệ thuật hơn? Chữ “” ngăn giữa phân đôi hai phạm trù độc lập, còn chữ “làm” biến nó thành cặp phạm trù hô ứng.

Tài nghệ của văn nhân theo tôi nghĩ là phải biết xóa bỏ không thương tiếc những cái cần xóa bỏ. Chỉ có như vậy, anh ta mới tiến lên được. Thơ là cái đẹp tối thượng của muôn loài. Là người trinh sát của thượng đế, Thạch Quỳ làm thơ là để đào thoát ra khỏi sự cô độc nhằm giải giới những ẩn ức của hồn mình. Thơ Thạch Quỳ có chỗ như trăng ngâm đáy nước, có chỗ như hoa chiếu trong gương, không dễ gì mà giải được. Anh cũng có những bài khó hiểu. Đọc Đêm miền rừng, xem tới xem  lui, đến cả tôi cũng không hiểu được tác giả muốn nói gì (!?). Chúng tôi viết thư hỏi Thạch Quỳ. Anh giải thích: “Tôi học ông Nguyễn Du, nhưng học cái gì ? Học cái triết lý gốc. Ở chỗ, tôi quan niệm Truyện kiều là cái phòng thí nghiệm. Thí nghiệm gì? Đổ cái chất ấy vào ống nghiệm thì nó ra cái chất gì sau các phản ứng? Ông Nguyễn Du đã đổ cái chất vào ống nghiệm?
ng nghiệm đó là gì? Xin thưa: Cái chất ông Nguyễn Du đổ vào ống nghiệm đó là tinh hoa của trời đất, của tạo hóa, là đặc trưng kết lại thành cô Kiều. Cô  Kiều đi qua ống nghiệm trở thành kẻ sống dở chết dở không hóa ma cũng chẳng còn cái hồn người. Tóm lại, thành cái dị dạng. Ông Nguyễn Du có khát vọng lớn là mong sao cho loài người có một cơ cấu xã hội cho hợp lẽ tự nhiên, đừng giết tinh hoa kết lại trong hai tiếng Con Người. Ông đã trố mắt khi thấy cô Kiều dị dạng tâm hồn, ông thét lên một khát vọng lớn ở tầm nhân văn, nhân bản, nhân đạo vô biên trong cái tập thơ như chỉ có mỹ cảm êm đềm “Mua vui cũng được một vài trống canh” mà ta thường gọi nôm na đơn giản là cái Truyện Kiều ấy. Bài Đêm miền rừng hoàn toàn là như thế. Nó nén cái triết lý Truyện Kiều lại trong từng ấy chữ theo nhận thức của tôi. Tôi viết nó bằng những động tác vũ điệu ma quái. Mong nó không dẫn dắt bạn đọc đi lạc vào khu rừng rậm đó”.
Nghe xong, đọc lại bài thơ, tôi lại càng tắc tị hơn, gọi dây nói cho tác giả:
- “Ông nói gì tôi chẳng hiểu mô tê chi cả”. Ở đầu dây ngoài Vinh, Thạch Quỳ hét toáng lên: “Vậy là hiểu quá rồi. Bác đã ngộ ra!”. Thế đấy, bạn đọc ai hiểu Đêm miền rừng, làm ơn làm phước xin giải mã giùm tôi.
*

Thơ Thạch Quỳ trầm bổng nhiều cung bậc như một cây đàn muôn điệu, luôn nhất quán ở tâm hồn, không nhất quán ở giọng điệu. Nghe Tiếng chim mà làm được sáu đoản khúc tài tình như vậy sức viết quả là sung túc và trường vốn. Nhìn đống gạch vụn đổ nát do chiến tranh hủy diệt ở thành Vinh nghĩ được xa gần là rất sâu.Từ Cái đường thẳng nằm t rong hình học của Ơclit nhảy sang Lôbasépxky khô không khốc đến cái chết của Galilê mà rút ra được bài học triết lý bổ ích cho cuộc đời, bộc trực được tâm tính con người như vậy là khá kỳ thú và tươi mát. Tình yêu mà lại tang tảng như Thơ viết ở Đàn Giao là rất nhộn. Những đề tài mòn nhẵn về làng cát, cỏ, cây thông, An Dương Vương - Mỵ Châu... mà nghĩ được riêng và đẩy được tới chốn vĩnh cửu như rứa là rất giỏi thơ... Phải chăng đấy là bằng chứng của sự đa dạng ở một phong cách đã định hình? Bạn đọc nên đọc toàn bộ thi phẩm Thạch Quỳ với 300 bài chứ không phải là hơn chục bài chúng tôi trích theo đây thì mới có thể kiểm chứng được nhận định này.

(Rút từ bộ THI NHÂN VIỆT NAM HIỆN ĐẠI)
THÁI DOÃN HIỂU

CHÂM NGÔN SỐNG VÀ VIẾT

Tôi viết phê bình là để làm sáng giá và sang giá tác giả, tác phẩm văn học.

HOÀNG NGỌC HIẾN

Mỗi ngày gặp một người, họ là mảnh của thiên tài nhân loại. Hãy nhặt những chữ của đời mà viết nên trang.

CHẾ LAN VIÊN

Sở dĩ tôi nhìn được xa trông được rộng là bởi tôi đứng trên vai những người khổng lồ.

NIU TƠN